29/4/17

XE JEEP CỔ - MỐT THỜI THƯỢNG CỦA DÂN CHƠI Ô TÔ.

.
Một trong những thú chơi của người Hà Nội là ô tô, trong số nhiều CLB chơi xe mang tên các hãng xe nổi tiếng thế giới như Mercedes, Toyota,  Mishbishi, Ford,  Landrover, BMW… với hàng trăm thành viên thường xuyên nhóm họp, giao lưu và trải nghiệm trên các cung đường du lịch. Điều đặc biệt hôm nay tôi được chứng kiến và gặp gỡ các anh em trong “Hiệp hội Jeep Miền Bắc” nhân một sự kiện  phục vụ đoàn khách du lịch Quốc tế thăm các danh thắng của Thủ đô.

Dàn xe Jeep trước Nhà hát lớn Hà Nội

Từ 13h trưa trời đang nắng gắt, những chiếc Jeep “hầm hố” bắt đầu tới dần tập trung tại trước cửa Nhà hát lớn TP. Những tay lái trong trang phục rất “ngầu” lao đến, họ thể hiện những đường cua điệu nghệ, tiếng phanh ken két cùng tiếng rồ ga ào ào khiến nhiều con mắt người đi đường đổ dồn về.  Sau khoảng thời gian ngắn cả dãy xe đã xếp hàng ngay ngắn trên phố.  Được người bạn “Hòa Goal” giới thiệu, sau cái bắt tay thân mật tôi trò chuyện cùng anh Nguyễn Văn Tân - Chủ tịch “Hiệp hội jeep Miền Bắc”, anh cho biết: “Hiệp hội Jeep Miền Bắc” được thành lập năm 2013 gồm 60 anh em chơi xe Jeep ở khắp các tỉnh thành phía Bắc, các thành viên có mặt hôm nay  họ đến từ Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hà  Nam, Nam Định,  Ninh Bình, Thái Bình, Hải Dương và Hà Nội. Anh em chúng tôi gồm đủ thành phần. Từ cán bộ , trí thức đến thương nhân, đủ mọi lứa tuổi. Chúng tôi có điểm chung là đam mê dòng xe quân sự - Xe Jeep.

Ông Nguyễn Văn Tân - Chủ tịch Hiệp hội Jeep Miền Bắc

Vóc dáng đậm đà trong bộ trang phục lính Mỹ, khuôn mặt trẻ hơn so với  tuổi đời 67, anh lặng lẽ cầm trên tay chiếc ipac để ghi lại những hình ảnh sống động của các hội viên trong không khí  vui mừng kỷ niệm ngày 30/4 và chuẩn bị đón đoàn khách du lịch Quốc tế đi tour Hà Nội bằng xe Jeep. Tập hợp hôm nay là 30 chiếc xe Jeep được các chủ nhân chuẩn bị chu đáo. Mui bạt được tháo hết, tấm kính chắn gió cũng được gập xuống tạo cảm giác mở với không gian, thiên nhiên bên ngoài. Đoàn xe xếp hàng dài trên trước nhà hát cổ kính lại càng tôn lên vẻ đẹp mạnh mẽ.

Ông Hòa Goal - Tổng thư ký Hiệp hội Jeep Miền Bắc

Trao đổi với  Vương Lâm, người được giao trách nhiệm điều hành tour du lịch này, Lâm chia sẻ:” Hiệp hội chúng em thường tổ chức các đợt đi “phượt” khắp các tỉnh thành, đã được UBND tỉnh Quảng Ninh mời tham gia một sự kiện lớn của Tỉnh, nhận hợp đồng đưa đón khách với các Công ty du lịch…Anh em  đều là những người đam mê, thích thì chơi thôi chứ không nặng nhẹ về tiền bạc.
Nói về những chiếc Jeep, Anh Hòa Goal - Tổng thư ký Hiệp Hội cho biết thêm: “ Những chiếc xe này hầu hết đều xuất xứ từ miền Nam,  nó là những chiến lợi phẩm sau khi Sài Gòn giải phóng, có tuổi mấy chục năm và được các an hem mua về “độ” lại từ khung, sườn, vỏ và máy móc cũ. Những chủ nhân chơi xe dòng này họ cũng cầu kỳ từng chi tiết nhỏ để cho chiếc xe thật đẹp và nhất là phải”hầm hố”

Rong ruổi cùng đoàn xe trên các con phố Hà Nội mới thấy nhiều người để mắt tới và ấn tượng  mạnh về những chiếc xe Jeep cùng những chàng trai ăn mặc rất “Mỹ” như thế nào. Tôi thì tin rằng nếu có một đoàn xe đời mới, bóng loáng, sang trọng đi theo đoàn trên phố và nhất là trên vùng cao Tây Bắc sẽ chẳng có nhãn hiệu xe nào gây được ấn tượng bằng những chiếc xe Jeep.
Một mô hình du lịch sử dụng phương tiện xe Jeep sẽ là một dịch vụ mà các Công ty du lịch lữ hành nên hướng tới nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch trong và ngoài nước.

Hà Nội 29/4/2017

Bài và ảnh : Kỳ Nam

Bài đăng trên báo: Diễn đàn Doanh nghiệp ngày 30/4/2017
http://enternews.vn/xe-jeep-co-mot-thoi-thuong-cua-dan-choi-o-to-110053.html




























28/4/17

KÝ ỨC MỘT THỜI BI TRÁNG


Lời tác giả


Trong những chuyến đi tìm hài cốt đồng đội, tôi thường kể chuyện chiến tranh cho những người cùng đi nghe, có người khuyên tôi: Viết thành sách đi bác. Viết đi để nhiều người được biết, chúng em chưa được nghe những chuyện như thế bao giờ. 

Viết thành sách ư ? Điều đó tôi chưa nghĩ tới bởi vốn sống có thể có, nhưng tôi đang học năm thứ 2 khoa toán thì đi lính, giải phóng Miền Nam không trở về lại trường mà theo lớp đào tạo dài hạn cán bộ Chính trị Quân đội. Thực hiện chế độ một chỉ huy lại được giao giữ chức Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 sư đoàn 441 QK 4. Số tử vi của tôi chẳng thể hợp với nghiệp binh đao do vậy năm 1987 tôi chuyển ngành về dạy môn Gíao dục Quốc Phòng, lĩnh vực không liên quan gì đến văn chương cả. Chưa từng qua một lớp đào tạo nào về văn chương, dù chỉ là một lớp tập huấn ngắn hạn dăm bảy ngày. Hơn nữa nếu có viết, mọi người đọc dưới những góc nhìn khác nhau, dễ đụng chạm lắm, ở ta nó vậy, viết mà sai đường lối của Đảng là phiền lắm. Lơ tơ mơ lại bị công an gọi đi chỉnh huấn thì kh. Bà con lối xóm không hiểu đầu cua tai nheo ra sao lại rỉ tai nhau: Ông ấy làm việc cho đảng Việt Tân nên bị CA bắt đi rồi. Ảnh hưởng đến gia đình, con cái.


Tháng 9 năm 2015 trong chuyến lên nghĩa trang Huyện A Lưới bốc mộ liệt sỹ, Lộc, người thân của chú em Trần Quang Sơn, cũng như nhiều người khác nghe chuyện, chú ấy lại động viên :

- Chép lại đi anh, nếu không đến khi anh qua đời nó thất truyền mất.
Lời khuyên của chú ấy làm tôi suy nghĩ mãi, bởi chú ấy là cán bộ cấp cao, được học hành tử tế, là Thạc sỹ luật làm việc tại VKSND tối cao, là một người tài giỏi và giàu lòng nhân ái, con đường quạn lộ đang rộng mở vậy mà chú ấy dám ra bỏ ngoài mở Công ty luật riêng, hoạt động từ Hà Nội đến tận Sài gòn. Chú đã khích lệ, có nghĩa là nếu có vấn đề gì đã có chú ấy bảo vệ.
Vả lại nếu không viết ra lòng mình cảm thấy có lỗi với bao đồng đội và cả với những người lính bên kia chiến tuyến đã chết, nhất là đối với số cán bộ, giảng viên, sinh viên của trường ĐHSP Vinh nhập ngũ tháng 1/1972, những anh em cùng đi một đợt với tôi nhưng họ mãi mãi không thể trở về.



Mặt khác, viết ra trong lúc này còn có cơ hội để nhiều anh em CCB trung đoàn 6 quân khu Trị Thiên Huế đang sống rải rác trên các tỉnh thành trong cả nước được đọc để họ còn phán xét, bình luận .

Đây là thời gian mà sức khỏe của tôi tương đối bình phục sau cơn bạo bệnh chợt đến vào ngày 19/3 vừa rồi. Hiện tôi đang mang trong mình nhiều căn bệnh hiểm nghèo, sống chết bất thường , nếu không cố gắng e rằng chẳng khi nào ghi lại được.

Sau gần một năm trăn trở tôi quyết định thực hiện lời khuyên của nhiều người.

Đây là những câu chuyện có thật nên tôi xin phép vẫn giữ đúng tên đất, tên người, nếu ai thấy điều gì sai sự thật xin được góp ý.

Tác giả : Đinh Hữu Hanh
Chương I : Lên Đường

Ngày 11 tháng 1 năm 1972. Đúng 250 cán bộ, giảng viên, sinh viên của trường ĐHSP Vinh lên đường nhập ngũ .
Những năm đầu thập kỉ 70 ấy, câu nói của Lê Mã Lương được các phương tiện tuyên truyền của Đảng làm dấy lên phong trào tình nguyện lên đường tòng quân đánh giặc. Câu chuyện về chàng thanh niên Lê Mã Lương quê Thanh hóa, xé toạc tờ giấy báo đi học Đại học, viết đơn bằng máu để được lên đường tòng quân, với câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là nơi trận tuyến chống quân thù” được lan truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Cùng thời điểm này  trong giới sinh viên rộ lên thông tin câu chuyện về người con trai duy nhất của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang du học Liên Xô được ông  triệu về nhập ngũ, không may cho cậu ta, khi cùng đơn vị hành quân vào đến Quảng Bình thì bị trúng bom B52 địch và hy sinh. Không chịu đựng nỗi mất mát to lớn ấy, vợ ông sinh bệnh tâm thần, nghe chuyện ai cũng xót thương. Sau này khi biết ra sự thật cùng với việc Giáo sư Trần Huy Liệu nhờ người bạn của mình công bố sự thật sau khi ông qua đời về Anh hùng liệt sỹ Lê Văn Tám là không có thật. Nhân vật "Em bé đuốc sống" được Ông dựng lên chỉ nhằm xây dựng một tấm gương về tinh thần xả thân giết giặc cứu nước. Và hình ảnh về người con trai duy nhất của Thủ tướng cũng vậy. Phạm Sơn Dương đang sống sờ sờ cùng với bà vợ Minh Châu và 2 con, lúc nghỉ hưu mang quân hàm thiếu tướng QĐNDVN, Phạm Sơn Dương đi thiếu sinh quân từ năm 16 tuổi chứ không phải nhập ngũ năm 72 và hi sinh ở Quảng Bình. 


Ảnh minh họa
Trong tinh thần và ý chí quyết liệt “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, trong bối cảnh chung của đất nước những năm tháng ấy mấy ai đủ can đảm để đứng ngoài cuộc. Hơn nữa đã có Lệnh Tổng động viên là thanh niên ai cũng phải lên đường nhập ngũ. Không riêng gì trường ĐHSP Vinh, ngay cả các trường đại học lớn tại Hà Nội bóng sinh viên nam cũng thưa dần. Trước đợt nhập ngũ tháng 1/1972 sáu tháng, những cán bộ giảng dạy như thầy Kiểu, thầy Đa .. . cũng đã lên đường tòng quân, là một học sinh lớp chuyên toán, học siêu giỏi như Thế Long cũng viết đơn bằng máu để được đi đợt ấy.
Trong phần lớn lớp thanh niên được giác ngộ cách mạng vẫn có những người tìm cách trốn tránh nghĩa vụ bằng nhiều mưu mẹo: Một sinh viên trước lúc đi khám tuyển cậu ta mượn của một ông giáo chiếc kính cận cao độ , bước vào phòng khám mắt, nó tháo kính lau lại cẩn thận và đặt ngay trên bàn cô Y sĩ phụ trách phòng khảm, thấy thế cô ấy hỏi :

- Em bị cận thị à ?

- Dạ , không.

Khi đọc đến hàng chữ thứ 5, cậu ta đọc lộn tùng phèo, miệng cô y sĩ lẩm bẩm :

- Cận nặng thế mà còn chối ! Đặt bút ghi vào tờ giấy khám : Mắt phải :5/10

Mắt trái 5/10 . Đến phòng kết luận : Không đủ điều kiện nhập ngũ .

Ra khỏi khu vực khám, cậu ta ném chiếc kính xuống đường cười khẩy :

- Em cảm ơn thầy, em sẽ xin tiền cha mua đền thầy chiếc kính tốt hơn.
Cậu ta học thuộc loại giỏi của lớp, trong năm 72 còn 2 đợt tòng quân nữa nhưng cậu ấy vẫn không bị gọi tên. Năm 1974 tốt nghiệp ra trường, Sài gòn giải phóng được vài ba năm , khi tình hình an ninh trật tự tương đối ổn định cậu làm đơn xin vào Sài gòn dạy học, nghe đâu bây giờ giàu có lắm. Cũng đúng thôi cơ chế thị trường là mảnh đât màu mỡ để cho con người lắm mưu nhiều mẹo, mánh mung như cậu ta khai thác.


Một trường hợp tương tự khác là cậu Th (Lớp A) sòng phẳng hơn, khi biết mình có tên trong đợt nhập ngũ, cậu ấy đã bỏ học về quê, bởi gia đình cậu ấy vừa nhận giấy báo tử anh ruột chưa ráo mực, trường cũng chẳng truy cứu gì  bởi thiếu người này đã có người khác thay thế  rồi về quê theo nghề chụp ảnh của cha. Một cô gái đẹp như hoa hậu thời nay đến chụp ảnh, nó mê ngay từ cái nhìn đầu tiên, một tuần sau xin đính hôn và được chấp nhận ngay, đó là cô gái đẹp nhất thị trấn Đô Lương, con một gia đình gốc Huế, con cháu dòng dõi vua chúa triều Nguyễn.

Thời gian gần đây gặp lại, nó thổ lộ :

"Khi chúng mày đang hứng bom đạn trong chiến trường, ở ngoài này tao ôm vợ nằm ngủ , phúc nhà to nên sinh được 4 trai 2 gái, được sự cưu mang của các cậu bên ngoại nên 2 cháu trai đã định cư tại Mỹ, 4 đứa còn lại chồng con gia thất đều ở tại Sài gòn, vừa rồi thương cảnh bố mẹ không chịu theo con cháu nên chúng nó lập cho cuốn sổ tiết kiệm cả tỉ đồng để lấy lãi suất an hưởng tuổi già, bây giờ tao chỉ ân hận một điều là mẹ tao không được phong tặng Mẹ VN anh hùng."
Nói xong nó cười vang cả một góc quán.Biết là nó cạnh khóe nên mình giả bộ không nghe thấy gì. Chả là nó có tên trong danh sách nhập ngũ năm ấy, nhưng gia đình nó đã có anh trai là liệt sỹ, nếu ở lại nhập ngũ và lại hi sinh thì mẹ nó được phong mẹ VN anh hùng thật.


Người nào chưa bị gọi tên thì ở lại học tập và chuẩn bị tinh thần sẵn sàng lên đường bất kể lúc nào. Theo cách nói của Tân Nguyễn thì chúng tôi “những người đầu thai nhầm thế kỷ” ra đi lòng trĩu nặng, nếu Tân Nguyễn nói câu đó ở một thời điểm khác chắc đã bị kiểm điểm "lên bờ xuống ruộng" nhưng lúc này chẳng có ai để ý, mà nếu Bí thư Chi bộ nghe được cũng đành phải làm ngơ bởi những người ra đi không hẹn ngày trở lại, nghĩa tử là nghĩa tận mà.

Chiều hôm ấy ngày 11/ 01/ 1972 tập trung tại hiệu bộ, mọi quy trình điều lệnh chúng tôi đều thực hiện nghiêm chỉnh từ chào cờ đến giới thiệu ông này bà nọ vẫn không bỏ sót một khâu nào. Cuối cùng thầy Khiêm thay mặt cho số anh em nhập ngũ đọc lời tạm biệt, khi Thầy đọc đến câu : "...Chúng tôi những cán bộ, giảng viên, sinh viên của trường xin tạm biệt mái trường thân yêu..."  Vừa nghe tới đó ai cũng như có luồng điện chạy dọc xương sống. Sau khi nghe đồng chí cán bộ nhận quân đọc mệnh lệnh hành quân : "Hướng hành quân :Hướng Tây; Tốc độ hành quân : 4km / giờ; Cự li hành quân : 1,5m ; Đội hình hành quân : 2 hàng dọc; Thứ thự hành quân: Từ phải qua trái ; Đi thường , Bước ! ". Sau tiếng "bước" người sau đẩy người trước: Đi đi kìa. Chúng tôi chậm rãi bước, sinh viên của lớp nào ùa theo người của lớp đó chậm rãi đi về hướng mấy chiếc xe ô tô đậu cách đó khoảng 5 - 7 trăm mét, đoàn người kéo dài ra có đến gần km, lầm lũi đi trong chiều tối, trời lất phất đổ mưa. Nước mắt của nữ sinh bắt đâu rơi lã chã, nhiều cô không nén được khóc to như có người thân qua đời, nếu thay vài ba lá cờ đỏ đi theo đoàn người cũng đang ủ rũ như tàu chuối héo bằng những lá cờ đuôi nheo thì trông chẳng khác gi một đám tang, và nếu như biết trước được số người mãi mãi không về trong đoàn quân ấy thì đây quả là đám tang thật.


Loay hoay mãi vẫn không lên nổi xe bởi cái vóc dáng thấp bé nhẹ cân của mình. Cao 1m58 nặng chưa đủ 41kg. Thấy thế hai người ghé vào xốc nách, hai người cầm chân đẩy tôi lên thùng xe như quẳng con dê cỏ đưa về lò giết mổ. 
Ngồi trên xe đoạn đường tuy không xa nhưng mặt đường quá xấu. Những ổ voi ổ trâu nhiều lúc hất tung chúng tôi lên khiếp ai cũng khiếp vía, tay lái xe liên hồi vặn vô lăng lạng lách sang trái lại sang phải như tỏ vẻ muốn khoe trình độ tay lái với các thầy giáo cùng các sinh.  Quãng đường xấp xỉ 40 Km mà phải mất hơn 2 giờ xe mới đưa chúng tôi về tới đơn vị huấn luyện, khi đó đã 8h tối.


Trời đất ! Đây là nơi chúng tôi ăn ở và huấn luyện ư ? Chúng tôi ngỡ ngàng khi đảo mắt nhìn căn nhà tạm lợp lá bốn gian được thắp bởi hai ngọn đèn "Hoa kỳ" ở hai đầu căn nhà. Giường nằm là cả một dãy sạp được ghép bằng tre và nứa chạy dài suốt căn.

Anh cán bộ "khung" người đã nhận và đưa chúng tôi đến đây giảng giải:

"Về tối quá chưa nhận được quân trang, đêm nay các đồng chí ngủ tạm, ai có mang theo nilông thì trùm lại cho đỡ muỗi"

Mấy anh em ái ngại quẳng tư trang xuống và ngồi vào mép ngoài của sạp nhún nhún như ngồi trên sa lông, tiếng kêu cót ca cót két như đưa võng. ‘

Cậu Hào 3C nhảy tót lên giữa sạp, chạy từ đầu này đến đầu kia, miệng hô: " Xung phong ,Xung phong "

Tuy mệt nhưng chẳng ai nhịn được cười, vài ba anh thấy vui cũng nhảy lên làm theo, đang hồ hởi, một tay cán bộ "khung" mặt bấm ra sữa chạy đến quát :

"Này,mấy thằng kia, làm sập giường bây giờ."

Cậu Hào đáp lại ngay :

" Ngồi trên xe xóc quá Thủ trưởng ạ, vận động một tý cho cho đỡ mỏi !"



Vài ngày sau được biết anh ta tên Thắng, quê Yên Thành, Nghệ An, người nhập ngũ trước chúng tôi một khóa và được giữ lại làm cán bộ "khung" với chức vụ : Tiểu đội trưởng, cùng sinh một năm với tôi. Cha tôi nói không sai : “Lính buổi mai cai lính buổi chiều”. Cơn mệt cũng đã thấm, mọi người lặng lẽ lên sạp nằm, vẫn có nhóm thì thầm trò chuyện nhỏ to, tiếng khúc khích thỉnh thoảng lại rộ lên. Tay Tiểu đội trưởng lại xuất hiện:
"Tất cả nằm ngủ đi, gần 10 giờ rồi đấy. Quá 30 phút theo giờ qui định rồi."

Một anh hỏi xách mé :

- "Chín rưỡi phải đi ngủ hả Thủ trưởng?"

- "Hai mốt giờ 30 phút!"

Cậu Hào nhanh miệng nói theo :

- "Thủ trưởng đã bảo rồi. Tất cả đi ngủ "
Lại có tiếng cười khúc khích, lúc ồn ào thì không nghe rõ. Những lúc lặng yên nghe rõ tiếng muỗi vo vo không ngớt, hóa ra muỗi nhiều vô kể, chỉ cần khua tay có thể nắm bắt được chúng. Mấy người mang theo nilon đắp lên người và kéo trùm kín mặt. Không chịu nổi vì hơi thở đọng lại cùng với mùi nilon và bí hơi nên mọi người đành phải tung ra. Một vài anh ngồi dậy nhớ lại chuyện hành quân lúc chiều, dần dần hầu như cả lán đều ngồi dậy trò chuyện cho quên đi thời gian chờ trời sáng. Tay tiểu đội trưởng thấy ồn ào lại chạy xuống :

- Này ! Chúng mày muốn làm loạn à ?

Mấy người gần như đồng thanh đáp trả:

- Không có chăn màn, muỗi như trấu bọn tao làm sao mà ngủ được, mày có giỏi thì xuống đây ngủ với bọn tao xem.

Cậu Hào sấn đến, mắt long sòng sọc chỉ vào mặt tay Tiểu đội trưởng :

- Đồ vô học. Mày có biết trong số này có mấy người là Thầy giáo dạy SV chúng tao không?

- Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, một Thầy giáo chạy lại giảng hòa:
- Đồng chí thông cảm, anh em đi đường về mệt mà đúng là không ngủ được thật thủ trưởng à, chúng tôi đâu phải con bò con trâu.

Vẻ như nhận ra mình đang gặm phải xương nên tay A trưởng lủi thủi đi về phòng ngủ.

Quay lại phía chúng tôi, Thầy nhỏ nhẹ :

- Các cậu làm thế mấy tháng huấn luyện ở đây nó rèn cho ra bã.

- Có ai đó đáp lại thật to: "Nó rèn cùng lắm là chết chứ Thầy, chết ở đây còn xác thầy ạ" , nó nói như một nhà tiên tri siêu hạng.

Với bản năng hách dịch thường thấy của cán bộ nên cậu Tiểu đội trưởng kia cứ nói năng hành xử vậy chứ vừa chân ướt chân ráo làm sao cậu ấy biết được trong hơn 30 người đang chen chúc nhau trên dãy sạp kia có ba người là giảng viên đại học (ĐH), còn chúng tôi đều là những sinh viên năm thứ hai, thứ ba, thứ tư. Lớp chúng tôi thuộc khóa thi ĐH đầu tiên của Tỉnh. Năm ông Tạ Quang Bửu đang làm bộ trưởng GD-ĐT, với phương châm “Thầy giỏi mới có trò giỏi” nên những người vào học ngành sư phạm từ năm 1970 và những năm sau đó đều là những học sinh giỏi và xuất sắc.


Trời sáng, chuyện xẩy ra đêm qua nhanh chóng qua đi . Trung đội trưởng Khai dẫn chúng tôi ra bờ khe làm vệ sinh cá nhân, đi ăn sáng và nhận quân trang ,
Trong đợt nhập ngũ này nhìn bề ngoài nhiều người trông vẻ cũng hiền lành và ngoan ngoãn  nhưng cũng không thiếu những anh chàng coi việc nhập ngũ đợt này như lên đoạn đầu đài để xử chém nên ứng xử "ngang như cua", họ coi Cán bộ "khung" như những tay đao phủ đưa phạm nhân ra pháp trường. Nói tóm lại là họ chẳng sợ ai, coi nội quy, kỷ luật chẳng là gì cả, cứ mong sớm hết 3 tháng huấn luyện để ra chiến trường. Cậu Hào 3C là một trong những người như thế. Quê hắn ở Quảng bình, người thấp đậm, lùn thì đúng hơn. Nhận quân trang chẳng may đúng bộ số O nó cười toe toét chạy về mặc thử.
Trời đất, cao chưa nổi 1m55, bỏ áo vào trong quần kéo lên. Chiếc quần dài quá lấp hết luôn chiếc túi áo trên ngực, nó lấy đây rừng buộc chéo ra phía sau như chiếc quần treo, chiếc ống cũng được cậu ta xắn lên ngang nửa ống chân, dày cỡ 42 xỏ vào trông chẳng khác gì hề Saclo. Đội mũ, đeo ba lô, cậu ta thản nhiên đi về phía khu vực đang phát quân trang. Mọi người nhìn hắn cười lăn ra cả bãi cỏ, như chợt nhận ra điều gì những người đã nhận quân trang chạy nhanh về nhà ở vội vàng mặc thử nhỡ gặp phải bộ như nó còn mang ra xin đổi. Riêng cậu Hào thì không, nó cố tình mặc như thể để trêu ngươi, mỗi lần tập đội ngũ các Trung đội khác nhìn thấy cũng không nhịn được cười. Nhận thấy những hành động đó làm ảnh hưởng đến học tập huấn luyện của đơn vị đồng chí Chính trị viên Tiểu đoàn xuống động viên nó đổi bộ khác, nó giương mắt lên:
- "Đồng chí bảo sao? đổi à ? tôi lấy bộ mới thì bộ này phát cho ai, bộ này tôi đã mặc cả tuần nay còn phát cho ai được nữa, các thủ trưởng đem ra làm giẻ lau súng à ? sao lại lãng phí như thế đựơc!"

Gần hết thời gian huấn luyện, Hào nhét toàn bộ quân trang vào ba lô mang lên gặp ban chỉ huy:
- "Thủ trưởng cho em đổi bộ số 3 để hành quân, nếu phải mặc bộ này thì em xin ở lại làm cán bộ "khung" chứ không đi đường xa được đâu thủ trưởng ạ."

Nghe thế ông Tốt, Tiểu đoàn trưởng mừng ra mặt, bởi lâu nay ông cứ lo thằng này ngang ngạnh thế, đến ngày đi B nó giở chiêu trò gì nữa thì ảnh hưởng đến tinh thần chung của toàn đơn vị, nó xin đổi quân trang và sẵn sàng lên đường là tốt rồi. Ông dẫn Hào đến kho quân nhu cho đổi bộ mới, khoác bộ số 3 mới khự, nó đi về lán, đứng nghiêm:

- "Chào các đồng chí " rồi toe toét cười đắc thắng.


Vào chiến trường chưa được bốn tháng thì Hào bị thương gãy xương đùi, do sơ cứu ban đầu chậm trễ nên phải mổ đi mổ lại nhiều lần, sau một năm mới lành hẳn, tuy nhiên chân ngắn mất 3 phân, chấp nhận đi với điệu "chấm phẩy". Về trường học tiếp khóa 14. Tốt nghiệp ra trường cầm tấm bằng nó bắt xe chạy lên Đoàn Điều dưỡng 200, Nghĩa Đàn gặp cô y tá đã chăm sóc mình khi còn nằm điều trị ở bệnh xá trung đoàn 6, cô ấy cũng bị thương sau đó được đưa ra ngoài này an dưỡng, gặp lại rồi yêu nhau. Hào ngỏ lời đính hôn và được chấp nhận. Hai người dắt nhau về quê tổ chức lễ cưới trong niềm vui mừng của gia đình, làng xóm và bè bạn. Hào được phân công về giảng dạy tại trường Sư phạm tỉnh nhà, vợ chẳng có nghề nghiệp gì đành bưng mẹt thuốc lá bán dạo ngược xuôi tại ga Thuận Lý. Dạy học được một thời gian vì đồng lương nhà giáo quá eo hẹp không đủ nuôi 6 miệng ăn, cái thời mà câu đồng dao “ Thầy giáo tháo giày tháo cả ủng, thủng áo, lấy giáo án dán áo” ai cũng thuộc. Phần vì mặc cảm với cái chân tập tễnh mỗi khi đứng trên bục giảng trước bốn năm chục nữ sinh nhìn thầy với ánh mắt thương cảm. Hào chia sẻ :

 "Mỗi lần đứng lớp, tao “ốc dộc”(xấu hổ)bỏ mẹ."
Rồi Hào làm đơn xin nghỉ "một cục" nhận tiền về mở quán phục vụ dân làm trầm ăn uống chịu nợ, dân trầm trở về tay trắng và vợ chồng Hào cũng trắng tay và chấp nhận sống tằn tiện bằng đồng trợ cấp thương tật 48% của Hào và 28% của vợ. Nhờ sự tảo tần, chịu thương chịu khó và nết ăn ở dịu dàng của cô gái Huế nên cuộc sống gia đình cũng bình yên trôi theo năm tháng. Có điều Hào sống xởi lởi nên dân làng yêu mến cậu ấy như dân công giáo yêu Cha đạo. Làm Xóm trưởng đã 25 năm nay nhưng dân không cho nghỉ. Tuy làm trưởng thôn nhưng đêm đêm vợ chồng Hào cũng kiếm thêm được vài chục đồng nhờ phục vụ đám chơi bài khi dăm bát mì tôm, lon bia, chai nước ngọt, có hôm thì nồi cháo gà... Đôi lúc gặp may khi có người thắng cuộc hào hiệp biếu thêm vài ba chục. Dân làng biết cả nhưng đều cho qua để cho chú ấy kiếm thêm chút ít đỡ vất vả.
Đó là vài nét phác thảo chân dung một trong số 185 người đi B ngày 2/5/1972 và may mắn sống sót trở về. Nếu như cái chân cậu ấy không bị thọt chắc cuộc đời đã đổi khác?

Nội dung cơ bản của cả khóa huấn luyện là ném lựu đạn thật và bắn bia số 4 bằng 3 viên đạn AK, thời gian huấn luyện được xen vào nhiều công việc tạp vụ như: Đi lấy củi, đi gùi lương thực từ thị trấn Nghĩa Đàn, vào rừng chặt tre làm cột điện, thích nhất là được thay nhau phụ giúp anh nuôi bởi khi đó tha hồ nhai cơm cháy. Tiêu chuẩn ăn mỗi ngày 7,1 lạng gạo mà chúng tôi vẫn đói hoa mắt bởi ăn uống nước khe nhanh đói lắm.
Chiều hôm ấy mấy tay đi phụ giúp nhà bếp về thông báo:

- "Từ chiều nay được ăn cơm tử tù rồi chúng mày ơi."

Chả là theo thông lệ trước lúc đi B anh em được bồi dưỡng ăn thêm 15 ngày, gọi là ăn thêm nhưng chẳng khác bữa thường là mấy, có điều số lượng món chuối xào, sắn tươi xào, măng luộc gấp đôi ngày thường, thịt lợn cắt dày hơn kèm thêm mỗi người một miếng chả cuốn, hôm nào sang có thêm món lòng lợn.
Nhìn vào đĩa thức ăn được bày lên chiếc khay nhôm, cậu Nay buộc miệng:

- Bữa ăn cho tử tù mà có thế này thôi ạ?

Cậu Trung đốp lại ngay:

- Mày ngu bỏ mẹ! Tử tù một năm có vài thằng, bọn ta mấy trăm thằng, ăn như tử tù thì Đảng và Nhà nước lấy đâu ra mày.

Cậu Nay buồn rầu:

- Đảng đưa thóc giống đi xay mà đối đãi thế này thì tệ thật.

Vừa lúc đó Chính trị viên Thạch đi qua:

- Đồng chí bảo sao? Ai là thóc giống, ai đưa thóc giống đi xay?

Bạo mồm thì nói thế chứ khi bị vặn lại cậu ta đỏ mặt tỏ vẻ sợ hãi.

Một thầy giáo đứng dậy giải thích hộ :

- Cậu ấy nói đúng đấy Thủ trưởng ạ, chúng tôi là giáo viên đại học Sư phạm, dạy các cậu này ra để làm giáo viên cấp 3, những người ươm mầm tương lai cho Tổ quốc. Chúng tôi ra chiến trường có thể chết, vì thế cậu ấy lấy hình ảnh xay thóc giống cũng không có gì sai đâu thủ trưởng ạ, mà bom đạn xay chứ Đảng đâu có trực tiếp xay, nếu Thủ trưởng bảo đảm chúng tôi ra đi và trở về 100% thì thủ trưởng cứ kỷ luật cậu ấy và kỷ luật cả tôi nữa. Còn ai đưa đi ư? Ai dám đến đây đưa chúng tôi đi được nữa.

Thầy nói thật nhẹ nhàng y như lúc đứng lớp giảng bài vậy, vừa có tình có lý nên ông cán bộ chính trị cũng trả lời được một câu tử tế :
- Các cậu có trình độ ĐH nói gì mà chẳng được.
Nói rồi ông lặng lẽ đi chỗ khác, cậu Nay đứng dậy cảm ơn thầy còn chúng tôi cười đắc thắng.
Có điều cậu Nay sau khi vào mặt trận chưa đầy một tháng đã bị “xay” mất rồi.

“Nay ơi! Cậu có linh thiêng thì phù hộ cho mình mạnh khỏe, nằm ở chỗ nào thì báo mộng cho mình, đường đến cao điểm Sơn Na nơi cậu chết mình vẫn thuộc như lòng bàn tay, mình đã vào đó 3 lần và đã đưa cậu Hữu nằm ở đồi Hai Vú về Thanh Xuân –Thanh Chương rồi đấy. Cậu tin mình đi, mình là lính trinh sát trung đoàn mà, 18 năm nay mình đã đưa được 6 đồng đội của trung đoàn ta về rồi đấy. Thanh Hóa quê cậu bây giờ đẹp lắm, không phải như hồi cậu đi đâu, có linh thiêng thì về mà tận hưởng!”



Trước lúc viết lại chuyện này tôi xin phép Thầy giáo, người cũng suýt bị “xay” trên đường lên quả đồi phía Nam dãy Răng Cưa hồi tháng 10/1972  may mắn còn sống trở về, thầy tâm sự:
- Viết làm gì, đó là một thời khổ nhục đau buồn vả lại nó cũng qua lâu rồi, nếu cậu viết thì đừng đề tên thật của mình nhé.

- Dạ, tên thật của thầy em sẽ nêu, nhưng chuyện của thầy thì em phải viết lại, viết lại để cho đời sau Thầy ạ, Thầy biết rồi đấy: Nguyễn Huệ hành quân Bắc phạt, chỉ dừng chân tại Nghệ an 7 ngày mà ông ấy đã huy động được 3 vạn con em nông dân, 12 tuổi trở lên ông ấy bắt sung lính (theo sử liệu của PGS-TS sử học Đỗ Bang). Thế nhưng danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp lúc đó đã 63 tuổi từ chối hợp tác vẫn không bị xử chém mà 3 lần cho người vào tận núi Thiên Nhẫn mời ra hợp tác cho bằng được, giao phụ trách Viện Sùng Chính trông coi việc học hành.
Tình yêu lứa đôi chân chính là động lực để cho nhau phấn đấu hoàn thiện mình hơn. Khi cùng ngồi trên ghế nhà trường cảm nhau thật đấy, yêu nhau thật đấy nhưng chỉ có thể trao cho nhau những nụ cười thân thiện hoặc những cái nháy mắt kín đáo. Tình yêu đó khi bị chia cắt nó như đổ thêm dầu vào lửa, nếu không như thế thì làm sao có cảnh hai cô sinh viên vượt chặng đường sỏi đá, đèo dốc 4-5 chục cây số trên chiếc xe đạp cà tàng vào ngày cuối tuần để mong gặp được người mình yêu đã lên đường nhập ngũ. Nhìn cảnh hai cô gái cùng dắt chiếc xe đạp lên được đỉnh dốc Lụi người ướt đẫm mồ hôi như thể vừa tắm từ khe lên. Vào tới đơn vị những tưởng anh ấy chạy ra động viên chia sẻ nào ngờ vừa bước chân vào đơn vị, anh cán bộ trực ban lạnh lùng hỏi:
- Các cô gặp ai?

- Bọn em từ dưới trường lên xin phép được gặp mấy anh cùng lớp đang huấn luyện ở đây.

- Cụ thể là gặp ai? Gặp ai còn biết để mà báo cơm khách chứ.

- Mời các cô ra nhà khách ngồi chờ, đồng chí ấy đang trong giờ huấn luyện, hết giờ sẽ báo cho ra gặp.

Hai cô gái tưng hửng dắt xe ra nhà khách ngồi hóng gió.

Dẫu sao anh cán bộ trực ban cũng làm được một việc tử tế bằng việc chạy xuống nhà bếp báo thêm hai suất cơm khách cho đồng chí H. B3-A7.


Năm ấy tôi cũng đã có người yêu nhưng cô ấy đang học cấp 3, lại chưa phải dịp nghỉ hè, hơn nữa quãng đường từ Nam Đàn lên Nghĩa Hội - Nghĩa Đàn xa cả trăm km nên nhớ thương cũng chỉ để trong lòng, nếu người yêu ở trường chắc tôi đã phải viết bao nhiêu bản tự kiểm điểm. Nhớ lại mà thương anh Danh, hai người yêu nhau đã dự định ngày tổ chức đám cưới, được ra với người yêu ở nhà khách chút thời gian, 21h30’ đã phải vào đơn vị, về chậm dăm mươi phút là vi phạm qui định và phải viết bản tự kiểm điểm. Có lần chị ấy lên thăm sau khi về lán ngủ đợi lúc yên tĩnh rồi Danh lén dậy lấy chiếc mũ cứng đặt phía đầu giường, balo đặt giữa, 2 quả lựu đạn gỗ đặt phía cuối giả làm 2 bàn chân, phủ chăn lên như thể người đang nằm ngủ vậy, đôi giày đặt ngay ngắn dưới đất, phòng khi trực ban đi kiểm tra đếm giày dép. Rón rén chạy ra gặp đồng đội đang gác:
- Cho mình ra nhà khách, sáng mai về sớm nhé ?

- Đi đi, nhẹ nhàng thôi.

Như một con mèo luồn qua hàng rào rồi đi như chạy cho thật nhanh... 

Cùng đi với người yêu còn có cô bạn gái. Nghe anh Danh gọi lẽ ra cô kia phải ngoảnh mặt vào vách nứa giả vờ ngủ để hai người còn có cơ hội trao gửi cho nhau những nụ hôn xa cách. Đằng này cô ấy cũng vui như mình cũng được gặp người yêu vậy, lại còn lịch sự thắp đèn cho sáng. Cán bộ trực ban phát hiện báo động kiểm tra quân số anh ấy chạy về không kịp thế là phải ngồi viết bản tự kiểm điểm cho tới sáng. Có lần thấy nhiều nữ sinh viên lên thăm họ báo động tập hành quân dã ngoại vì sợ chúng tôi tiếp xúc với nữ sinh sẽ sinh ra tiêu cực, nhụt đi ý chí chiến đấu hay lỡ có anh nào thoái thác nhiệm vụ mà bỏ về, hoặc tránh ngày hành quân lên đường đi B ảnh hưởng đến chỉ tiêu giao quân và bị cấp trên khiển trách.


Thú thực là ngày ấy chúng tôi lên đường không hẳn vì tình yêu Tổ Quốc, tình yêu ấy trong chúng tôi còn mơ hồ lắm. Chúng tôi lên đường vì danh dự cá nhân, danh dự của gia đình, danh dự với nhà trường, với bè bạn, với người mình yêu. Mỗi lần gặp được các bạn từ trường lên thăm là quên hết mọi mệt nhọc. Hết chiều thứ 7 này là mong đến chiều thứ 7 khác, khách của một người thành khách của cả Trung đội. Cũng có hôm lớp cử cả một đoàn trai gái lên thăm, những tình cảm trong sáng đó đã chắp bút cho những người học toán khô khan như chúng tôi tập làm thơ và đã có không ít bài thơ được truyền tay nhau trong những cuốn sổ lưu niệm như để nói hộ lòng mình.


Một hôm cậu liên lạc của Tiểu đoàn xuống báo với Trung đội trưởng Hân:

- Thủ trưởng Tốt bảo cho đồng chí T  A7 lên gặp.

Biết chuyện nhiều người đoán già đoán non: “Chắc là báo cho nó được điều về đội bóng quân khu ấy mà!”. Chả là trong số anh em giáo viên, sinh viên nhiều người đá bóng rất hay, chỉ mỗi đội bóng của Tiểu đoàn đá giao hữu với đội bóng B250, là đội đoạt cúp của tỉnh Nghệ An năm đó. Cầm hòa 3-3. T là tiền đạo và là người ghi cả 3 bàn thắng. Thấy thế, Quân khu cũng muốn rút một số người đá bóng hay về bổ sung cho đội bóng vừa được thành lập.


T đi trước chúng tôi theo sau nấp sau vách nứa rình xem chuyện gì sẽ xảy ra. Thấy ông Tốt đang ngồi trên chiếc ghế trong phòng giao ban, T bước vào. Ông ngước mắt :

- Đồng chí ngồi.

Khi T đã yên vị ông từ từ rút trong túi ra 1 tờ giấy nhẹ nhàng đẩy về trước mặt T :

- Đồng chí làm 2 bài thơ này phải không ?

T nhìn lướt qua rồi ngẩng mặt lên vẻ tươi cười:

- Dạ vâng, thưa Thủ trưởng tôi làm.

Ông Tốt vẻ dằn giọng:

- Tại sao đồng chí lại làm hai bài thơ này?

- Thủ trưởng ạ ! Thơ là thứ từ đáy lòng nó toát ra đầu ngòi bút, làm thơ không phải như mấy đồng chí đang tăng gia ngoài kia, Tiểu đội trưởng bảo cố gắng cuốc cho xong là xong, càng không phải như ăn, ăn vào nó ra cái khác chứ không phải ra thơ.

Ông Tốt nóng mặt quát :
- Thôi, đồng chí không nói nữa, đồng chí có biết bài thơ của đồng chí lan truyền đến bao nhiêu người và gây tác hại đến đơn vị như thế nào không?
T thủng thẳng đáp:
- Thưa thủ trưởng. Lan truyền đến bao nhiêu người và tác hại thế nào thì Thủ trưởng điều tra, tôi là lính tân binh thì làm sao mà làm được việc đó.
Ông Tốt không thể chịu đựng được trước cách trả lời của T, ông nổi nóng:
- Thôi, không nói chuyện đó nữa.
Ông vội thò tay vào túi rút ra 1 tờ giấy quăng xuống trước mặt T.
T lẩm bẩm hát: “Ai đi qua chợ Mới, ai đi qua dốc Lụi ở đấy Nghĩa Đàn, người Nghĩa Đàn có tấm lòng đen tối, như mấy ả bán thịt chó ở Thái Hòa..”(Tôi không dám ghi vào đây toàn bộ lời bài hát, bởi có nhiều câu không văn hóa lắm). Đó là bài hát T chế từ lời bài “Rừng xanh vang tiếng ta lư” mà chúng tôi đã thuộc lòng, cả Trung đội thường hát vang khi hành quân dã ngoại qua thị trấn Thái Hòa.
- Thôi, không hát nữa, đồng chí có biết bài hát này làm ảnh hưởng đến tình quân dân trên địa bàn đóng quân như thế nào không?
- Ảnh hưởng thì tôi không rõ nhưng tôi thấy mỗi khi hành quân dã ngoại anh em hát lên thấy phấn chấn trong người, khỏe ra, hành quân về đơn vị mà không thấy mệt.
- Đồng chí im đi, về suy nghĩ lại ngày mai lên gặp tôi.
T lễ phép chào ông ra về, vừa ra tới sân ông Thạch - Chính trị viên chạy sang:
- Tôi đã bảo anh rồi, bọn này không thể làm cứng như lính nông thôn được đâu, tôi đã vấp phải chúng nó một lần rồi.
Ông Tốt chửi đổng:
- Thằng mất dạy!
Tôi nghĩ bụng : Đúng, cả 200 người chúng tôi đều "mất dạy”


Rồi ngày mai, ngày kia chẳng thấy gọi T lên nữa. Ông Tốt là người miền Nam, tuy hơi cục cằn nhưng không để bụng, thù giai nên ông vẫn để T trong số những người không phải đi B. Tuy nhiên số phận thật trớ trêu, đến ngày lên đường một số anh em quê ngoài Bắc nghỉ phép không vào kịp hoặc cố tình không vào nên T lại nằm trong danh sách phải đi thay để đủ chỉ tiêu trên giao. Vào mặt trận B4 tham gia nhiều trận, đến trận đánh cao điểm 303 chuẩn bị cho việc kí hiệp định Pa- ri ngày 27 tháng 1 năm 1973 T là người sống sót cuối cùng, tuy nhiên một viên đạn có mắt tìm phần mềm chui vào và cũng tìm phần mềm chui ra, có điều bị sức ép hai tai điếc đặc, bò ra đường 14 được anh em tuyến sau đưa về trạm xá...Về học lại khóa 13. Ra dạy , thầy hiệu trưởng động viên T. viết đơn xin vào Đảng, T, bảo :Tôi tổ chức thiếu nhi quàng khăn đỏ cũng không vào chứ đừng nói chi chuyện vào Đảng thầy ơi !

Chả là trong đầu cậu ấy lúc nào cũng mặc cảm với hình ảnh một thành viên trong đội cải tạo tư sản xô mẹ mình ngã xuống đất, tay giật phăng chiếc dây chuyền vàng trong cổ bà đút túi, T nghĩ cán bộ của Đảng mà xấu như thế thì vào cái đảng đó làm gì, vả lại, thấy ở trường những người không phải là đảng viên lại là những giáo viên dạy giỏi, sống ngay thẳng, với bè bạn có đầu có cuối. Tôi có lần hỏi: Tại sao cậu không vào đảng? T bảo: Tao không vào để uống rượu cho thoải mái.


Đối với Đảng là thế nhưng với đồng đội và bè bạn lại rất mực yêu thương, tuy bị bệnh Gút đã nhiều năm nhưng tháng 7 năm 2016 vừa rồi vẫn bò lên được đỉnh 303 tìm ra căn hầm Lê Khắc Duy(khoa văn) bị vùi lấp hy sinh, nhưng khi đào lên chỉ còn đôi dép cao su và vỏ băng đạn AK, tất cả đã thành cát bụi


Vợ cậu ấy cũng học toán K17, con nhà thành phần trong CCRĐ nên phải đi TNXP mấy năm, cũng chẳng tham gia đảng phái chính trị nào, hai vợ chồng lo chí thú giảng dạy, làm kinh tế và kèm cặp con cái nên cả ba đứa đều học trường Phan , nay cô nào cũng thành đạt , riêng cô thứ hai đã định cư tại Na-uy, đầu tháng 8 năm 2016 mua một căn hộ tại thủ đô nước bạn trị giá 18 tỉ đồng tiền Việt . Mỗi lần “Hội Cựu ĐH Vinh- CCB Trung đoàn 6”, gặp nhau vào dịp 30-4, chỉ có 10 đôi mà chuyện chiến trường không khi nào cạn, có lần vợ tôi thành thật bảo :
- Đẻ con gái mà được như chị N. Cũng sướng cái bụng.

Bà ấy cũng thành thật cãi lại :

- Mát lúc khác chứ lúc đẻ nòi nhà ông T. to con đau bỏ mẹ !

Mấy chị em lại ôm nhau cười đau cả bụng.



Tiện đây xin chép lại 2 bài thơ T. làm để mọi người biết tâm trạng chúng tôi ngày ấy : DỨT ĐI HAY Ở LẠI bài thơ đựơc phỏng theo bài ĐỢI ANH VỀ của nhà thơ Ximonop (Người Nga)


Anh đã lã là người lính
Mất hết đời học sinh

Phải xa cách người tình

Chỉ còn gươm súng đạn

Em ơi tình đã cạn

Đời lại lắm gian nan

Khác chi cây khô tàn

Lại thêm nhiều nắng gắt

Tùy em đó em ơi

Dứt đi hay chờ đợi

Nhưng cũng khó mong mỏi

Ngày thắng trận anh về

***

Nếu còn về em ơi
Đôi nạng lê giữa trời
Cánh tay phải đạn xơi
Đôi mắt đen còn một
Tùy em đó em ơi
Dứt đi hay chờ đợi !?

Bài thứ 2: LẠNH


Xuân đến rồi sao lòng ta lạnh

Phải chăng còn vương vấn cảnh mùa đông !?

Không ! Bởi ta xa ánh lửa hồng

Của em yêu , nên lòng ta lạnh !


Vào năm thứ nhất, tôi đã là một cây văn nghệ của lớp với giọng hát trong trẻo , giọng hát mà đến bây giờ các bạn gái như chị Phan Thị LýPhạm Cầm ThuNguyễn Vân, Thu Hạnh... vẫn còn nhắc đến, lại là bạn thân với Tân Tùng quê ngay bên bờ sông Bến Hải , anh ấy thuộc đến cả trăm bài hát mà thời đó gọi là "nhạc vàng" .
Những lúc chờ đến giờ đi ngủ, nhiều người lại kéo nhau ra bãi cỏ nằm nghe tôi rên rỉ với những "Giọt mưa thu", "Đồi sim tím", "Lời người ra đi", "Tết này con không về". Tiếng hát trong đêm, trong hoàn cảnh chờ đợi ngày lên đường ra "pháp trường" nghe thật ai oán não nề. Thế là tôi bị kết tội: Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Họp trung đội để xét hình thức kỷ luật tôi, vào họp, sau khi nghe trung đọi trưởng tuyên bố lí do, tôi hỏi : Đề nghị đồng chí cho biết thế nào là "văn hóa đồi trụy"?

- Đồi trụy là đồi trụy, tôi nghe đồng chí chính trị viên bảo thế chứ tôi làm sao biết được.

Cả trung đội lại được một trận cười chua chát.

Trung đội giải tán, không có được biên bản đề nghị kỉ luật tôi, đêm hôm sau lại họp tiếp, tôi đứng lên dõng dạc nói như đọc:

- Tôi nhận khuyết điểm là đã hát những bài hát mà đồng chí chính trị viên gọi là "văn hóa đồi trụy" và xin nhận hình thức kỷ luật là: Đuổi về trường ĐH tiếp tục học tập vì không đủ tiêu chuẩn đi bộ đội.

Cả trung đội nhao nhao vỗ tay tán thưởng: Nhất trí! Nhất trí!



Chuyện kiểm điểm tôi rồi cũng được lờ đi và những bài hát đó lại theo chúng tôi suốt chặng đường hành quân, tôi lại hát phục vụ yêu cầu thính giả khi dừng chân nghỉ giải lao 15 phút.. Trên đường hành quân, mấy anh cán bộ khung chẳng dám làm căng như khi còn huấn luyện , bởi chúng tôi những tử tội bị án oan sai, trên đường ra pháp trường nhưng chân tay không bị xiềng xích mà anh nào trước ngực cũng lủng lẳng khẩu AK đã nạp đủ 30 viên đạn. Họ cũng muốn nhanh đến đích giao cho đao phủ để còn trở ra Bắc về với vợ con.

Từ ngày đặt chân lên đơn vị huấn luyện đến ngày ra đi là 3 tháng 19 ngày, trừ 15 ngày về phép, còn đúng 3 tháng 4 ngày , Kết thúc chương trình mỗi người được bắn 3 viên đạn thật, ném 1 quả lựu đạn thật, mỗi tiểu đội cử một người “có bản lĩnh”để bắn điểm xạ 3 loạt 6 viên và ném lựu đạn đúng mục tiêu, còn lại đứng nhìn và vỗ tay khích lệ. Trong số những anh “có bản lĩnh” đó có người kéo cò cả 6 viên nổ giòn như pháo tết, không thể điểm xạ 2 viên một, thậm chí có anh khi chạy về đũng quần ướt như ngồi nhằm vũng nước. Kỹ năng của người lính QĐNDVN mang vào trận để đối mặt với cường quốc có tiêm lực quân sự mạnh nhất thế giới chỉ có vậy.


Vĩnh biệt thao trường, nơi mà mở mắt ra là gặp ngay câu khẩu hiệu:

"Thao trường có đổ mồ hôi

Chiến trường đánh Mỹ đỡ rơi máu đào"

Có lần để trêu tức ông chính trị viên, tôi đọc:

"Thao trường dẫu đổ mồ hôi

Chiến trường đánh Mỹ máu tươi đỏ lòm".


Ông ấy ngoảnh lại thấy tôi, biết là đã gặp “thằng mất dạy” trong số 200 thằng mất dạy nên im lặng bước đi tiếp, chắc ông sợ đụng độ với những “thằng mất dạy” sẽ bị hố như lần nào.

Sáng ngày 2/5/1972 khi cả đoàn quân đang tập trung tại sân chào cờ để lên đường đi B, bất ngờ cậu Th,(khoa văn) ngã đùng xuống đất bò lê bò càng cào cấu kêu đau như đàn bà đau đẻ, một số người nhanh chóng khiêng vào phòng quân y, ông Thạch cho gọi Y sỹ lên nói nhỏ điều gì đó, một lúc sau thấy đồng chí ấy chạy lên báo cáo : Đồng chí Th. đỡ rồi thủ trưởng ạ.

Ông Thạch nói như ra lệnh :

- Trung đội 4 tổ chức khiêng đồng chí ấy đi. Tiêm nước cất vào mà đỡ ngay thế thì chỉ có giả đau thôi, không ngờ hắn ta lại làm như vậy.


Chả là Th đang là đối tượng để kết nạp vào ĐCSVN, tiểu đoàn có ý định kết nạp cậu ấy dọc đường hành quân để làm gương cho chúng tôi noi theo. Không biết Th có biết anh em đã biết cậu giả ốm hay không mà suốt chặng đường từ Nghĩa Hội - Nghĩa đàn đến đất bạn Lào, ngày nào cũng hai bữa cháo, không hề chịu rời khỏi cáng dù phải qua nhiều đoạn đường đèo dốc. Chỉ khi đến đoạn tạt ngang qua dãy Trường sơn để vào miền tây tỉnh Thừa Thiên do đường quá dốc và hiểm trở, anh em không thể cáng nổi đành nói với mấy người cán bộ khung:

- Các ông muốn đưa nó ra chiến trường thì các ông khiêng lấy, bọn này chịu hết nổi rồi.!
Thực tình, trên vai mỗi chúng tôi đã mang không dưới 30kg cộng thêm khẩu AK lủng lẳng,một mình leo dốc còn khó khăn sức đâu mà cáng nổi một người to con như cậu Th. Không còn cách nào khác cán bộ buộc phải gửi Th lại trạm giao liên thế là mục đích của cậu ấy đã thực hiện được. Từ bấy đến nay không gặp lại cậu ta, trong số anh em chúng tôi trở về cũng chẳng ai có tin tức gì về cậu ấy. Chuyện của Th được chúng tôi đàm đạo nhiều trong những lần "Hội Cựu ĐH Vinh- CCB trung đoàn 6" gặp nhau.
Cậu H - người có tập thơ "Bóng đời" được NXB Hội Nhà văn ấn hành, nói :
- "Phải thừa nhận ý chí thằng Th thật kiên định, có những đoạn dốc cao là thế, hai thằng cáng,hai thằng phía trên kéo,hai thằng phía dưới đẩy, thế mà nó vẫn không chịu xuống đi cho nửa bước. Cả tháng trời ngày 2 bữa cháo hoa thế mà vẫn chịu được, nhất quyết không đi là không đi."
PGS-TS B nói thêm vào :
- Cái cơ bản là do chúng ta ngu,quá ngu ! nó không đi thì kệ mẹ nó, chẳng nhẽ chúng nó đặt cáng lên vai chúng ta à ?
Cậu T là cựu lính trinh sát lớn tiếng:

- Không phải ngu ! Không phải ngu mày ơi, mà chúng ta đã bị cho uống thuốc lú từ nhỏ.Tao hỏi chúng mày : Mấy thằng ta đây có đứa nào không thuộc bài hát:”Ai yêu nhi đồng bằng bác Hồ Chí Minh”.

Đấy cái chính là ở chỗ đó. Một thằng bỏ ngũ trở về thì cả làng nguyền rủa bởi cả làng bị uống thuốc lú.

Chị L. là dân dạy lý miệng lúc nào cũng tươi nên chúng tôi đặt cho biệt danh ấy, vẻ điềm tĩnh chậm rãi nói :

- Tao thấy chúng mày đứa nào nói cũng có cái lí của nó, nhưng tao lại nghĩ khác: Nếu ngày đó tay Th. hành động một cách tích cực hơn là cậu ấy đứng ra trước hàng quân phản đối việc đưa giáo viên và sinh viên ra chiến trường, tất cả chúng ta đồng lòng ủng hộ cậu ấy. Chả lẽ họ lại đưa xe tăng nghiền nát 185 con người như bọn Cộng Tàu làm ở Thiên An Môn. Sinh viên trường ta làm như thế, làm gương cho các trường ở Hà Nội cũng làm theo, làm được như vậy cậu Th có khác chi Lê Quang Vịnh ở Sài Gòn, khác chi Binclinton bên Mỹ, biết đâu thằng Th hiện nay lại là "Thổng Bí thư" thực sự vì dân.

Cậu B. cắt ngang :

- Thôi đi mày ơi ! Mày nghĩ như đang ở NewZealand nơi con gái mày làm dâu, ở xứ này mà làm như thế thì đã chết ngoắc vì tai nạn giao thông như vợ chồng Lưu Quang Vũ rồi.

Tóm lại là chuyện hậu chiến của mấy anh chúng tôi chỉ kết thúc khi có điện thoại của vợ ai đó điện về mà thôi.


Bom đạn không sợ, nhưng về với đời thường anh nào cũng sợ vợ. Bởi, bom đạn đã trừ lại, trở về đi nhiều, thấy nhiều và cũng học được nhiều.Tiếp xúc với đủ hạng người, ăn đủ món ngon, món dở. Không có vợ mới khổ, còn không có gì cũng chẳng là gì cả, chả thế mà trong số chúng tôi nhiều anh khi nghỉ hưu là nghỉ Đảng (trong đó có tôi) vì sợ rằng đêm mồng 3 hàng tháng đi họp bàn nhiều nội dung quan trọng, về muộn để vợ ở nhà nằm một mình lại sợ ma....


Hành quân về đến Nghi Vạn – Nghi Lộc đã 6 giờ tối , mấy người rủ nhau ra kênh đào tắm. Trở về chiếc ví của tôi không cánh mà bay. Được dừng chân nghỉ lại một ngày tôi xin về thăm gia đình lần cuối. Hướng Truông Lõng băng đồng, về tới nhà 9 giờ sáng . Người yêu đi học chưa về, chạy xuống cửa hàng HTX mua bán Kim Liên mua chiếc bút Trường sơn, ra ông thợ khắc bút khắc 4 chữ “VIẾT TIẾP TRANG SAU”, nét chữ ông thật bay lượn. Hơn 12 giờ thấy cô ấy đang đi vội trên con đường dẫn vào cổng làng, tôi nấp vào bụi cây để hù dọa, chờ khi cô ấy đi tới nơi tôi nhảy bổ ra đường. Sau một lúc hốt hoảng rồi cũng kịp bình tĩnh lại, cô ấy hỏi :
- Anh về khi nào đi ?

- Hai giờ chiều anh phải đi rồi.

- Hôm nay học xong còn phải ở lại khiêng bàn ghế , em bị vấp ngã rách cả quần đây này!

Phía dưới gấu quần một đường rách độ gang tay, còn một lỗ thủng nữa mà chắc nàng không biết : Phía trên đùi sau, một lỗ nhỏ như hạt gạo nếp nhảy múa trêu ngươi. Tôi nhìn vào mà mắt hoa lên và lòng thì rạo rực. Cái lỗ nhỏ ấy như viên bạch ngọc theo tôi suốt chặng đường hành quân, mỗi khi nghỉ giải lao nằm gác đầu lên balo ngắm bầu trời qua kẽ lá rừng lại thấy như có trăm vạn viên bạch ngọc nhảy múa khích lệ, động viên mình dấn bước. Phải vượt qua bao nhiêu con sông ngọn núi, qua bao nhiêu bom đạn để trở về chui qua hạt gạo nếp ấy mà khám phá.

Có một bức thư tôi nói đến chuyện này. Khi thư vào, cô ấy viết “ Con cú vọ đáng yêu của em , may mà em chỉ gặp con cú vọ , nếu hôm đó em gặp con thú dữ thì thân thể em đã tan nát mất rồi , cảm ơn con cú nhé” đồng đội của tôi đọc bức thư ấy chẳng ai hiểu là gì cả !

Rẽ vào nhà tôi trước,tôi lấy chiếc bút chìa ra cho cô ấy :

- "Những gì anh cần nói thì đã có trên thân chiếc bút này , em hãy cố gắng, nếu anh không có ngày về "

Cô ấy chạy lại bịt lấy miệng tôi: "Không được nói bậy."


Hai đứa dắt nhau về nhà cô ấy cách nhà tôi không xa, bà mẹ thì vồn vã, ông bố thoáng nét buồn, đứa con rể tương lai mà ông rất mến thương ra đi chưa hẹn ngày về. Hai đứa chúng tôi ăn một phần cơm để lại, cơm nước xong tôi nài nỉ : "Cho anh xin chiếc ảnh chứ mấy cái hôm trước mất hết rồi."

Nghe thế cô ấy vội chạy lại nắm hai tai tôi, vừa vặn vừa hỏi:

- Sao lại mất, ảnh người yêu mà còn để mất thì còn giữ được cái gì nữa ?

Ông bà nghe thế chạy lên hỏi :

- Cái chi rứa bay ?
- Làm mất hết ảnh của con rồi
- Thôi !  Mât thì lấy cái khác đưa cho nó.
- Nể lời cha, tha cho anh đó, lần này mà để mất nữa thì cho mất luôn !
- Dạ , em nghe lời chị. Tôi đùa.
Mẹ cô  ấy dúi vào túi áo tôi một ít tiền : Cầm lấy đi đường mà uống nước.
Thực tình tôi không muốn nhận nhưng lòng khấp khởi mừng thầm vì tối qua vừa mất ví, hơn nữa nhà mình nghèo ra đi biết cha mẹ sẽ chẳng có đồng nào cho.

Tình yêu của chúng tôi bắt nguồn từ tình làng nghĩa xóm và được sự vun đắp của cả hai gia đình, tôi viết lá thư tỏ tình năm tôi mới mười tám còn cô ấy cũng vừa tròn 16, tính đến thời điểm đó cũng đã tròn 2 năm chúng tôi yêu nhau.
Tiễn tôi ra đến đình làng hai đứa chia tay, khi đi đã khuất tôi nghe cô ấy gọi thật to : Anh Hanh! 
Tôi ngoái đầu nhìn lại thấy bóng dáng em như đá vọng phu:
- Thôi em về đi.

Nói được chừng ấy rồi quay bước chạy một mạch về hướng Truông Lõng, qua Truông Lõng trời bất chợt trút cơn mưa đá, tìm vách đá ẩn nấp, ngắm nhìn những hạt mưa tan chảy mà lòng buồn man mác. Quãng đường sau lưng chỉ còn 5 - 6 km mà sao thấy đường về quê xa xăm vô bờ. Về tới nơi đóng quân, mấy cậu cùng tiểu đội vui mừng thông báo: “Bọn tao thấy chiếc ví của mày ngoài đường, chỉ còn ảnh thôi, tiền không còn đồng nào.”.


Tối hôm đó, hành quân đến Hưng Phúc chúng tôi được nghỉ lại 2 ngày, một số gần nhà kể cả cán bộ khung được Trưởng đoàn cho về. Nghỉ chưa được 1 ngày thì nhận được lệnh lên đường hành quân.Tân và Phong được cử về huyện Nghi Xuân tìm gặp ông Sáu (Phó đoàn). Sang đến Gia Lách, Tân bàn với Phong: “Cả huyện Nghi Xuân biết ông ấy ở đâu mà tìm, hơn nữa là cán bộ khung, giao xong lại trở về Bắc. Có ông ấy ta cũng đi, không có cũng đi, chi bằng ở lại đây chơi.”. Hai người ở lại Gia Lách một ngày rồi cũng đón được xe đuổi kịp đơn vị .Cũng nhờ hai ngày nghỉ mà người Thầy tôi luôn tôn kính kịp để lại cho cô vợ một cậu con trai, đặt tên là Hào để kỷ niệm nó được sinh ra trên chiến hào. Nghỉ lại Cự Nẫm, chờ xe bên Lào về đón, mấy cậu Tân, Hữu, Tào, Trung đi lấy cơm trưa về thì cả 4 chiếc ví bị mất cắp. Thật buồn, cùng vào với nhau nơi sống chết khó lường mà còn ăn cắp của nhau? Cậu Hữu buồn bã nằm quay mặt vào vách nghĩ ngợi, bỗng vùng dậy kêu toáng lên:
- Chúng mày ơi, lại đây mà xem:“Các đồng chí hãy cảnh giác, chủ nhà này hay ăn cắp”

Đó là câu cảnh báo của các đoàn quân đi trước, viết chi chít trên những tấm ván nhỏ làm vách. Thấy chủ nhà đi về, Tân lễ phép:

- "Bọ" có cất dùm 4 chiếc ví của bọn con không, cho chúng con xin lại ?

Ông già chối đay đảy. “Pằng! Pằng!”, 2 viên đạn AK từ khẩu súng trên tay cậu Trung nổ giòn, xới tung đất cạnh chân ông già. Ông vội quỳ xuống: "Xin các chú tha mạng." Rồi dẫn mọi người ra phía góc vườn, nơi có gian nhà bằng đất phòng chống cháy, dùng để chứa lương thực. Trong ấy có 4-5 chiếc thùng phi chứa đầy thóc và quân trang, ông thò tay vào một chiếc thùng lấy ra 4 chiếc ví, đúng ví của 4 người. Các trung đội khác cũng có nhiều người kêu mất nhưng đành bó tay.



Bên cạnh hình ảnh đẹp của nhân dân vùng đất lửa Quảng Bình: “Xe chưa qua, nhà không tiếc, đường chưa thông, không tiếc máu xương”. Vẫn có những "bọ" biết tiếc những đồng tiền chúng tôi mang theo làm kỷ niệm. Sợ bom đạn xé nát cùng thân xác nên các "bọ" lạm phép giữ lại để tiêu dùng. Từ đây chúng tôi hiểu ra một điều: Câu chuyện tiếu lâm “Đi ngang” không còn là chuyện để người ta nói xấu quê "bọ"


Nghỉ lại Cự Nẫm 3 ngày , xe chở chúng tôi sang trạm 5 thuộc đất Lào . Đây là trạm số 5 nằm trong chuỗi trạm dừng chân của bộ đội ta trên đường Nam tiến, là con đường nằm song song với đường mòn HCM, con đường này chỉ rộng khoảng 1m, xuyên qua rừng rậm, chỉ dành cho bộ đội hành quân và TNXP gùi lương tải đạn. Những đoạn đèo đốc lấy gỗ chẻ ra làm thành bậc như bậc cầu thang, những đoạn quá dốc có hai dây song to gần bằng cổ tay để người đi vịn vào đu lên , những đoạn phải băng qua các bãi cháy do bom Napan, mỗi người chặt mỗi cành cây khô, khi có máy bay đối phương trinh sát thì ngồi yên lấy cành khô che lại, từ con đường này đi ra đường HCM có nơi chỉ hơn 1 km nhưng cũng có đoạn 5,6 cây số. Hành quân trên con đường này vừa an toàn vừa mát mẻ, rất ít khi thấy ánh nắng mặt trời. Trên con đường ấy cứ khoảng 30 - 40 km lại có một trạm dừng chân đủ chỗ cho khoảng 2-3 trăm người mắc tăng võng, gọi là “Trạm khách”, bước chân đến trạm , mùi xú khí bốc lên nồng nặc bởi chất thải của các đoàn đi trước không được lấp kín. Mỗi trạm đều có kho dự trữ quân trang, lương thực để bổ sung.Thư từ được gửi lại các trạm này và từ đó đi về khắp mọi miền đất nước.

Ảnh minh họa
Đêm nghỉ ngày đi, đến trạm 36 thì bất ngờ nhận được lệnh băng qua dãy Trường sơn để bổ sung cho mặt trận Thừa Thiên Huế. 185 người ra đi, rơi rụng dần với nhiều lý do. Người thì mắc bệnh nằm lại tuyến sau, nhiều anh lẩn vào rừng rồi tìm đến các đơn vị TNXP và trở thành “mì chính cánh” là thuốc đặc hiệu điều trị bệnh i-tờ-ri, một căn bệnh thường xẩy ra ở các đơn vị nữ TNXP, người thì bỏ hộp thịt vào bếp nổ tung để kiếm vài vết bỏng may ra được nằm lại trạm, người thì lùi lại phía sau tìm đến đầu quân cho các đơn vị pháo binh , công binh. Còn lại 152 người được giao cho trung đoàn 6 tỉnh Thừa Thiên Huế tại đồi Con Chim. Từ đây tiếng súng từ mặt trận dội về nghe rất rõ, và cũng từ đây tôi đã làm quen được với anh Hoàng Văn Vơn trưởng ban quân lực trung đoàn cùng quê Nghệ tĩnh. Trước lúc nhập ngũ là giáo viên dạy văn cấp 2 xã Xuân Mỹ - Nghi Xuân. Người có câu nói rất ấn tượng khi đang còn trên bom dưới đạn: "Cách miệng một gang là cái dạ dày, là nơi đựng thứ mà khi nôn ra con người không thể ăn lại được, thằng nào còn sống trở về cứ nghiệm mà xem" 
Chương II - VÀO TRẬN


Ngày 17/6/1972 đoàn chúng tôi có mặt tại đồi Con Chim dưới chân động Cù Mông, nằm phía đông thung lũng A Lưới, nơi đây là khu rừng nguyên sinh khá bằng phẳng, đến đây vào mùa hè các bạn sẽ được nghe tiếng lá khô xào xạc dưới chân mình. Cán bộ của Trung đoàn 6 đã có mặt để nhận quân. Trung đoàn 6 là quân địa phương của tỉnh Thừa Thiên Huế, câu đồng giao “ Quần đùi, cùi bạt, bát ống bơ, đầu tóc bơ phờ là lính trung đoàn 6”,hay "Quần đùi, cùi bạt, bát ống bơ, ăn xin, ở nhờ, là lính E6" đã được lưu truyền nơi đây.

Trưởng đoàn nhận quân Hoàng Trung Vơn, quê Xuân Mỹ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh là Trưởng Ban Quân lực Trung đoàn. Trong khi chúng tôi tản ra để nghỉ ngơi thì 2 Trưởng đoàn làm việc với nhau. Công việc bàn giao trên giấy tờ diễn ra chóng vánh. Riêng đống hồ sơ lí lịch cá nhân, ông Vơn nói:

- Cái này không cần đâu, các đồng chí mang về Bắc dùm, trung đoàn chúng tôi nằm ở giáp ranh, mang những thứ này về nguy hiểm lắm, khi cần sẽ cho anh em khai lại.

Ông ấy nói cho đẹp mặt vậy thôi, cái ông cần là con người bằng xương bằng thịt, trái tim còn đập và có thể cầm súng được, mớ giấy lộn ấy ông biết thừa là khi tự khai anh nào chẳng đã chải chuốt cho sạch sẽ.


Trưởng ban Quân lực Hoàng Trung Vơn, nay là Chủ tich Hội
Người Cao tuổi Xã Xuân Mỹ, Nghi Xuân (đứng giữa)

Hoàng Trung Vơn thật xởi lởi, nụ cười luôn túc trực trên môi, ông đến bắt tay và ôm từng người:

Nghệ Tịnh quê choa cả! Đẹp trai quá! Trẻ quá. Sinh viên cả ! Lại có cả giáo viên nữa.!

Ông ôm tôi thật lâu: Trẻ Quá ! Đẹp trai quá ! Học khoa gì? Thương quá ! Tiếc quá !

Bắt tay và ôm người nào là ông cứ lặp đi lặp lại 4 từ : Thương quá. Tiếc quá !



Ảnh minh họa


Một tháng sau tôi mới hiểu được ông ấy 

muốn nói gì. Tôi nhanh chóng chiếm được cảm tình của ông.

Bỗng ông gọi:

- Thái ! Cho mày thằng này. 

Ông ấy chỉ vào tôi (Thái là Đại đội phó trinh sát trung đoàn) rồi ông cùng anh Thái đi một vòng chọn them 6 người nữa gồm: Trần Đình Duyệt, Trần Đình Thiết, Nguyễn Đồng Quy (khoa sinh), Lê Văn Lính (khoa văn), Đoàn Đức Hiếu, Trần Xuân Tùng (khoa lí).

Ông ấy hỏi thật to: 
- Thầy giáo TXS đâu?
- Có tôi

Ông cầm tay thầy S. và nói với Đại đội phó Thái :

Cho mình gửi anh đồng hương này về đơn vị cậu.

Số còn lại được chia cho các đơn vị bộ binh, đơn vị nào nhận xong quân là đi ngay, sợ ở lại bị bớt đi một vài người thì tiếc lắm. Trên đường về đơn vị, đi được khoảng một giờ đồng hồ thì tôi lên cơn sốt rét, có những đoạn phải bò ra mà về.

Anh Thái thấy thế mang ba lô cho tôi, rồi mang luôn cả khẩu súng.

Anh ấy dặn: “Em cứ từ từ về sau,nơi nào ngã ba đường, thấy có nhành cây xanh tấp lại thì không đi, anh đưa 7 người kia về trước.”


Tôi đã bắt đầu cảm nhận được tình đồng đội ở nơi cái chết cận kề.

Về đến hậu cứ thấy mấy người kia đang ăn thứ gì trắng nõn nà, một  người cầm một miếng to bằng nắm tay đưa cho tôi :

- Đây ! Ưu tiên cho thằng ốm. (đó là anh Lê Đại đội trưởng).

Trời đất ! ngon đến lạ lùng. Ngọt thanh, mềm giòn, càng nhai càng béo ngậy, sau này tôi mới biết đó là phần non của thân cây đoác, một loại cây giống như cây dừa nằm rải rắc bên sườn núi, hai bên khe suối, có nhiều trên vùng núi miền tây tỉnh Thừa Thiên Huế. Đó là bữa liên hoan chào đón mấy người lính mới, ăn vào tôi khỏe hẳn ra, như người ốm nặng được đổ nhân sâm vậy. 

Tôi nhanh chóng được y tá Nông Văn Vàng kiểm tra và tiêm thuốc.
Tối hôm đó lại được thưởng thức  món canh lạ: Canh rau tai voi, mùi vị đến bây giờ vẫn không thể quên được. Khoảng 9 giờ đêm đang nằm trong hầm kèo, đất cát rơi xuống mặt che chắn không kịp, hầm rung lên như ai lắc. B52 rải thảm, một quả nổ làm sập hầm bộ phận nuôi quân, khi bới lên thì Hoàng Thám quê Thanh Hoá đã mềm oặt, tắt thở. Chôn anh ấy ngay tại căn hầm, một người nữa đã nằm lại mãi mãi và trở thành vô danh. Đêm hôm đó còn có 5 người khác của các bộ phận đóng rải rác quanh khu vực E bộ cũng hy sinh. 


Sau 5 ngày, cắt cơn sốt, tôi được giao nhiệm vụ cùng tổ của anh Chấn (quê Hải Dương) đi nắm tình hình địch tại cao điểm Sơn Na. Mải chăm chú nhìn phía trước để quan sát địch, một sợi dây thép mỏng tang chạm vào đùi, lùi lại tôi hỏi nhỏ:  Cái chi đây ?
Anh Chấn từ từ tiến lên quan sát, không nói năng gì, tay chỉ về phía gốc cây bên đường, một quả mìn đã rút chốt nằm trong lon thịt hộp đang lủng lẳng đung đưa, quả mìn vẫn mắc kẹt trong vỏ lon thịt hộp nên không nổ, anh ấy nhẹ nhàng nắm lấy quả mìn, lấy chốt an toàn của mình mang theo chốt lại bước qua dây thép giăng ngang đường tiếp tục đi. Xong nhiệm vụ quay trở về anh ấy lại rút chốt an toàn ra và cài lại như cũ, xóa mọi dấu vết rồi trở về hậu cứ. Về kể lại cho mọi người nghe, anh Lí (Chính trị viện Đại đội) gọi Chấn lên bảo : 

- Mày bậy bạ! Nó là lính mới sao lại để nó đi đầu, may cho nó nếu không đã tan xác mất rồi.

Lần thứ nhất tôi thoát chết và nghĩ “Chiến trường cũng thường thôi.”



Ảnh minh họa
Khoảng 10 ngày sau lại tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đó, lần này không đi vào gần hàng rào để đếm địch mà nấp vào sườn cao điểm 460 phía tây bắc đỉnh Chúc Mao, dùng ống nhòm quan sát. Có lẽ anh Chấn đã sợ, bởi anh ấy nổi tiếng là nhát như thỏ.

Hơn 3 giờ chiều chúng tôi rút về, đang đi trên bãi cháy sườn 460 thì bất ngờ gặp pháo kích của địch bắn tới. Anh Chấn hô:

- Chạy đi ! 

Vừa chạy vừa quan sát địch đang lố nhố trên đỉnh Sơn Na, chẳng may tôi vấp ngã, hạ bộ đập vào  gốc cây bị pháo cắt cụt. Đau không thể kêu lên được, vừa lúc đó anh Chấn chạy qua, tôi đang nghiến răng chịu đựng. Thấy vậy anh quát:

- Không chạy đi còn giơ răng ra mà cười.

Nghe thấy thế tôi muốn cười nhưng không cười được lại cắn răng chịu đựng. Chạy được khoảng 50m, nhìn lại thấy tôi vẫn nằm yên, anh ấy quát: 

- Đ. mẹ mày, không chạy đi nằm đó mà chờ chết à ?

Rồi anh mặc tôi, chạy về hậu cứ. Tôi cố gắng ôm hạ bộ nhúc nhắc đi về, vẫn nhăn nhó đau, vẫn phô ra hàm răng trắng ởn.

Thấy tôi xuất hiện, Chấn nói với anh Sợi - Chính trị viên phó: 

- Đấy ! Đến bây giờ nó vẫn còn cười.

Nghe thế tôi giơ tay ra hiệu ý nói không phải.

Lại gần thấy máu chảy đã quá đầu gối, mọi người biết tôi đã bị thương. Anh Chấn nói : "Tao cứ nghĩ mày cười."

Anh Vàng chạy lên, chẳng ngại ngần gì kéo chiếc quần cộc của tôi xuống tận mắt cá.

Trời đất ! Bộ hạ sưng to như quả cà dừa tím.Khâu chỗ rách, tiêm thuốc và băng tạm .Anh ấy chạy vào rừng tìm lá về đắp và băng lại cẩn thận hơn.


Đêm nằm không ngủ được, tuy có đỡ nhiều nhưng vẫn đau nhức. Tôi nghĩ điều xấu có thể xảy ra: Nếu còn sống trở về, vẫn đủ 2 chân, 2 tay, 2 mắt, vẫn đẹp trai, nhưng khi cô ấy phát hiện ra ruột của quả cà dừa đã không còn thì cô ấy cũng đành nói lời “gút bai”. Khi đã thành vợ thành chồng, tôi đem chuyện này kể với vợ, cô ấy vùng dậy lấy đèn pin kiểm tra xem tôi nói thật hay bịa chuyện, xem xong cô ấy bảo :

May thật ! Nếu không, uổng công 8 năm trời đuổi bắt con cú vọ !

Tuy nhiên cô ấy vẫn thấp thỏm lo cho đến khi sinh ra một thằng cu bụ bẫm khôi ngô nặng 3,6kg vào cuối tháng 10 năm 1978.

Năm 81 sinh thêm cậu con trai thứ hai cũng bụ bẫm khôi ngôi chẳng kém, khi đó cô ấy mới thở phào nhẹ nhõm: 

- Tỉ lệ thương tật bằng “không”, anh không làm chế độ thương binh cũng đúng thôi !


Thời điểm chúng tôi được bổ sung cho Trung đoàn 6 là lúc “Quân lực Việt Nam Cộng hòa” đang chuẩn bị tái chiếm thành cổ Quảng Trị. Trung đoàn tôi sau khi để đối phương chiếm lại Bình Điền, Sơn Na, Hai Vú, Ba Trăm cũng đang chuẩn bị lực lượng để đánh chiếm lại. Số sinh viên cùng với gần 200 quân lính nông thôn của 2 huyện Yên Thành và Thanh Chương được bổ sung cho E 6 nhằm làm nhiệm vụ ấy. Lực lượng chủ yếu lúc này đang ém quân dọc 2 bờ khe Cù Mông. Mở mặt trận Tây Nam TP Huế là nằm trong ý đồ chiến dịch đánh nghi binh giải phóng Huế buộc địch rút một phần lực lượng về phòng thủ Huế tạo cơ hội cho quân chủ lực Miền Bắc đánh chiếm thành cổ Quảng Trị. Thời điểm chúng tôi vào là quân chủ lực của ta đang chiếm giữ thành Cổ. Nắm được ý đồ địch sẽ tái chiếm Thành Cổ vào trung tuần tháng 7 năm 1972. Trung đoàn 6 có nhiệm vụ khi “Quân lực Việt Nam Cộng hòa” mở chiến dịch tái chiếm Thành cổ thì trung đoàn cũng mở chiến dịch đánh chiếm vào sườn tây nam thành Huế. Cùng tham gia chiếm dịch có Sư đoàn 324 và Trung đoàn 4 của Trịnh Tố Tâm đánh đèo Hải Vân chia cắt Quảng Nam - Đà Nẵng với Thừa Thiên Huế. Riêng tiểu đoàn 12 đặc công của Trung đoàn 6 đã bị xóa sổ tại căn cứ 372 trong giai đoạn đầu chiến dịch.120 chiến sỹ đặc công không còn ai sống sót.


Ảnh minh họa
Do tầm quan trọng của chiến dịch như vậy nên sự ác liệt trên mặt trận Tây nam Huế cũng chẳng thua kém gì mặt trận Quảng Trị, có ngày phải hứng chịu 8,9 lượt B52 rải thảm cùng với hàng ngàn quả pháo từ Mũi Né, Giàn Bò, Phú Bài , Hòn Vượn, rồi cả pháo hạm từ biển bắn vào.Một khu vực rộng tầm 5,6 ki-lô-mét vuông phải hứng chịu hàng vạn tấn bom đạn. Hạt cát còn vỡ thành bột huống chi con người. Khi chúng tôi vào Đại đội trinh sát chỉ còn 22 người nữa. Chết chủ yếu là do B52 và đạn pháo. Nói tóm lại là cái chết có thể đến với bất cứ ai, bất cứ lúc nào, ở đâu.


Vào một ngày trung tuần tháng 7 năm 1972 khi vết thương đã lành nhưng cán bộ đại đội vẫn chưa cho tôi đi trinh sát nắm địch. Nằm ở hậu cứ không có việc gì làm, tôi vác dao vào rừng tìm thực phẩm mang về cải thiện cho anh em. Mỗi ngày chỉ được 3 lạng gạo một người bõ bèn gì ! Thấy một cây mít tố nữ đầy quả, bụng nghĩ: Anh em tối này về tha hồ ăn mít luộc, tôi trèo lên đến chạc ba dừng lại nghỉ ngơi, thì bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, khói bom đen đặc, tiếng nổ chát chúa, mảnh bom xé gió rít ngang tai. Lại là B52, tôi ôm vào thân cây chờ chết. Chỉ trong giây lát nhưng tôi cũng kịp nghĩ ra “Sao lại nhanh chết đến thế, chưa làm được công việc gì đáng kể”. Một phút, hai phút rồi ba phút trôi qua, các loạt bom xa dần. 

Thế là tôi lại một lần nữa thoát chết, tụt xuống đất nhặt những quả mít được bom phạt rơi ngổn ngang trên mặt đất thế là có gùi mít nặng mang về hậu cứ, vừa về đến nơi gặp anh Lí - Chính trị viên : 
- Từ sáng đến giờ mày bỏ đi đâu ?

- Em đi tìm thực phẩm thì bị loạt đầu của B52 nhưng không bị gì.

- Tao tưởng mày đào ngũ rồi.

Rất may nếu tôi đã chết trên cây mít kia thì họ đã cho tôi là đã đào ngũ, có khi cũng chẳng báo tử cho gia đình và cũng chẳng được công nhận là liệt sỹ.


Rồi anh lệnh tiếp: “Theo tao ra Bãi Bằng nơi K1 ém quân để giải quyết thương binh tử sỹ”

Trên đường đi anh Lý cho biết mấy loạt B52 vừa rồi đã đánh đúng nơi ém quân của K1, cả Tiểu đoàn bị thương vong gần hết, không có lực lượng thu gom tử sỹ và đưa thương binh về tuyến sau nên Trung đoàn đã huy động lực lượng của các đơn vị trực thuộc ra trợ giúp. Tôi được phân công cùng mấy người thuộc đơn vị vận tải thu gom xác chết. Bất ngờ gặp cậu Hoàng (khoa văn) bị thương đang nằm rên, Hoàng cùng Trung đội với cậu T, tôi hỏi:
- Thằng T đâu ?
- Chết hết cả rồi,chỉ còn mình tao.

Tôi gọi mấy người khiêng Hoàng về Trạm Phẫu thuật tiền phương rồi tiếp tục công việc của mình. Cùng mấy người thu nhặt được một số mảnh thi thể, mảnh to nhất may ra chỉ nặng vài kg, tất cả bỏ chung chưa đầy một túi ni lông đựng gạo Trung Quốc, mang lên chôn vào Bãi Bằng nằm cách bờ khe Cù Mông không xa. Ở đó đã có năm, sáu ngôi mộ được chôn từ trước. Trong một lần đi tìm hài cốt đồng đội, hỏi đồng chí Xã đội trưởng được biết : Những ngôi mộ nằm khu Bãi Bằng đã được đội quy tập 192 của Tỉnh cất bốc về Nghĩa trang Bình Điền. 

Thời gian mới đây cậu em út của T. đã quyết đi tìm anh bằng đường ngoại cảm, cậu ấy nhờ tôi đi dẫn đường, bởi trung tâm ngoại cảm ở HN phán anh cậu ấy đang nằm ở nghĩa trang Bình Điền, tuy không tin vào ngoại cảm nhưng tôi vẫn nhận lời đi để xem họ làm gì với trường hợp này. Vừa đến cổng Nghĩa trang Bình Điền, cậu T báo cho Trung tâm ở Hà Nội biết. Từ lúc này điện thoại được mở loa ngoài để 2 bên trao đổi với nhau. Tất cả mọi người nghe rất rõ tiếng nói giọng Miền Bắc, đó là giọng ông B. Là người thuộc trung tâm bà H: 
- “Em đi thẳng lên, rẽ trái, ngôi mộ thứ 4 từ trái sang, hàng trên cùng, trên tấm bia có một vết nứt chạy xiên, phía đầu ngôi mộ có 4 cây phi lao hay là cây thông gì đó, trên mộ có 2 bông hoa nhỏ, dưới mộ còn xương sọ và 2 xương đùi.” Theo sự hướng dẫn đó, các chi tiết không sai điều gì, còn dưới mộ thì tôi không tin điều đó.Trong lúc mọi người đang làm thủ tục cúng bái tôi đi đếm được 108 ngôi mộ, chỉ có 4 ngôi có danh và cũng chỉ có ngôi mộ số 4 hàng trên cùng từ trái sang có một vết nứt.

Tiếng nói từ ngoài Hà Nội vang lên :

- “Em làm các thủ tục đi, đếm đúng 20 nén hương, hương sẽ hóa đấy”

Chỉ trong chốc lát, nắm hương được thắp lên mộ bùng cháy, người nhà cúi lạy lia lịa – còn tôi thì không, bởi thấy có điều gì trắc ẩn...

Là người trực tiếp thu nhặt thi thể bạn tôi , hài cốt của bạn thế nào tôi là người rõ hơn ai hết, có một lần cậu em bạn tôi ở TP- HCM đặt vấn đề nhưng tôi đã khuyên không nên đi tìm, bởi nếu có đi chắc chắn sẽ không có kết quả, riêng cậu em út thì quyết tìm anh cho bằng được và đã tìm đến Trung tâm ngoại cảm của bà H. Khi được người của Trung tâm chỉ dẫn là hài cốt cần tìm đã được cất bốc về nghĩa trang xã Bình Điền, cậu nhờ tôi đi dẫn đường, tuy không tin nhưng tôi vẫn nhận lời, đi để xem bọn họ làm kiểu gì. Đến cổng Nghĩa trang cậu út báo cho người trực tiếp chỉ huy cuộc tìm này là ông B. Từ giờ phút này loa ngoài của ĐT được mở, họ chỉ lên ngôi mộ số 4 từ trái sang, hàng trên cùng, mọi chi tiết đúng đến 100%, tiếng ông B. ai cũng nghe rõ :
- Em làm các thủ tục đi , đếm đúng 20 quê hương, hương sẽ hóa đấy


Chợt nghĩ, nghĩa trang lộng gió thế này chỉ cần 5 que, hương cũng đã bốc cháy, cần gì 20 que. Hương cháy được một lát thì bốc cháy thật, những người đi theo vái lạy lia lịa, cậu út tay run lên và quay sang nói với tôi :

- Nhờ anh làm chủ lễ hộ em, em run quá !

Cậu út vừa dịch sang một bên nhường chỗ cho tôi thì tiếng trong máy điện thoại lại vang lên :

- Không được. Ngồi đúng vị trí vào, cậu ngồi lệch với ngôi mộ rồi. 


Bất chợt, bản tính của người lính trinh sát năm nào trong tôi thức tỉnh, chẳng lẽ một hành động nhỏ như vậy mà ở tận Hà Nội họ vẫn biết, chắc có điều gì khuất tất, tôi đảo mắt quan sát toàn bộ khu vực nghĩa trang, cách chỗ chúng tôi khoảng 5,6 chục mét một người đàn ông cũng thắp hương và ngồi bên một ngôi mộ, chíếc điện thoại luôn áp vào tai...Sau nhiều ý kiến qua lại, chúng tôi quyết định tìm gặp người làm công tác chính sách của xã để biết thêm lai lịch ngôi mộ, trong lúc chờ chủ nhà đi làm về thì cậu út nhận được cuộc điện thoại từ Hà Nội vào, loa ngoài được mở, một giọng nói gay gắt pha chút tục tĩu:

- Về đi em ơi ! Đừng tin chúng nó một lũ lừa đảo, chị theo bà H. Đã 7 năm trời, mất cho bà ấy bảy triệu rồi, thế mà hôm qua nghe lời bà ấy chỉ dẫn, đào lên có cái đ. gì đâu, em về cầu siêu và xây mộ cho anh ấy. Đ. mẹ chúng nó, một lũ bịp bợm. Tôi hỏi :

- Ai đấy ?

- Chị Hợp, người đi tìm mộ chồng, em gặp và làm quen hôm ở ngoài Trung tâm HN

- Sao em không nhờ bà ấy mà lại nhờ ông B ?

Cậu út thành thật trả lời :

- Hồ sơ gửi cho bà H phải kèm theo lệ phí ban đầu 5 triệu trở lên bà ấy mới nhận, hôm ấy em bỏ 2,5 triệu nên bà ấy bảo sang gặp ông B ông ấy sẽ giúp cho. Người chỉ huy ta lúc nãy là ông B đấy.

Vừa lúc đó chủ nhà đi làm về, sau một lúc đặt vấn đề tôi tung ra đòn thăm dò :

- Chúng tôi vào đây, làm việc gì ở ngoài kia đều biết cả.
- Các bác mới vào không biết đó thôi, nghĩa trang này thỉnh thoảng lại có người lên chụp hình, ghi chép, ngôi mộ nào có dấu vết chi mà họ chả biết, hồi nãy các bác không chú ý quan sát nên không biết đó thôi, có người theo dõi các bác cả đấy.
-  Anh biết thế sao không có ý kiến gì ?
- Ý kiến chi được bác. Có ý kiến lơ mơ bị xe tông chết có ngày.  Hơn nữa gia đình người ta đã tin, mình đâu dám can ngăn, có khi phải chờ đợi mấy năm tốn bao nhiêu tiền bạc mới có chút hy vọng ấy. Mình dập tắt hy vọng của họ đâu đành lòng, thậm chí biết họ ban đêm đào trộm mộ cũng đành nhắm mắt làm ngơ thôi.

Mọi người như đã hiểu ra thủ đoạn làm tiền của “bọn bịp bợm” được Nhà nước cấp phép. Đau thương vì con em, chú, bác, đã tử trận. Nay lại mất tiền cho bọn đội lốt nhân đạo kiếm tiền trên thân xác đồng đội tôi. Trên thế gian này có đất nước nào như đất nước mình không nhỉ !!!???

Thực ra thủ đoạn của chúng chẳng có gì mới, lính trinh sát chúng tôi trước đây cũng lập đài quan sát trên cao, dùng ống nhòm để xác định tọa độ của đối phương, dùng điện đài 2W báo về cho pháo mặt đất, cứ thế bắn phát nào trúng phát đó. Chúng có thể lừa được nhiều người, nhất là những người nhẹ dạ cả tin, chúng không thể qua mặt được anh CCB trinh sát trung đoàn năm nào, người đã có kinh nghiệm 18 năm với hàng chục lần vào chiến trường đi tìm đồng đội bằng trí nhớ. 


Ngày 15 tháng 10 năm 1972 “Quân lực VNCH” hoàn tất việc tái chiếm thành cổ Quảng Trị, Trung đoàn chúng tôi cũng kết thúc chiến dịch Tây nam thành phố Huế, hiện trạng trên chiến trường lại trở về như cũ, Trung đoàn chúng tôi đã hao tổn nặng nề. K12 đặc công bị xóa sổ, các đơn vị bộ binh quân số chỉ còn lại 1/3, thậm chí K1 đơn vị chủ công có đại đội chỉ còn 14,15 người, riêng số giáo viên, sinh viên trường đại học Vinh, hơn 80 người bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó tử trận 53, thầy Tuân khoa hóa và thầy Hùng phòng khoa học nằm trong số đó. Các đơn vị phối thuộc cũng tổn thất nặng nề : Trung đoàn 4 chỉ còn lại một tiểu đoàn và giao lại cho trung đoàn 6 quản lý, xóa phiên hiệu Trung đoàn 4, sư đoàn 324 để lại chứng tích Khe Máu.


Trung tuần tháng 10/1972 Trung đoàn chúng tôi lại được bổ sung khoảng 500 quân của 2 tỉnh Hải Hưng và Hà Nam, đồng thời nhận lệnh cấp tốc vượt qua dãy Răng Cưa để đánh chiếm đồng bằng huyện Phú Lộc nhằm giành đất, giành dân tạo thế da báo đồng thời chia cắt Đà Nẵng với Huế khi Hiệp định Pari có thể được ký vào ngày 26/10/1972.


Ảnh minh họa
Đối phương không dễ để ta thực hiện ý đồ đó. Sau vài ngày bị bất ngờ, đối phương lúng túng và thất bại chút ít, quân ta đánh sập cầu Thừa Lưu, đánh hỏng một vài đoạn đường ray tàu hỏa, thu được một xe tải thực phẩm, bắn cháy 2 xe tăng , bắt sống 4 lính địch.

“Quân lực VNCH” củng cố lại lực lượng và phản công ta từ 2 phía : Đà nẵng đánh ra, Huế đánh vào ta cố chống trả nhưng lực bất tòng tâm, cơ số đạn và quân lương mang theo đã cạn, khẩu phần ăn lúc này mỗi người chỉ được 1,3 lạng gạo/ngày, phải đào củ chuối của dân để ăn thêm, tình thế không thể trụ lại được, trung đoàn buộc phải rút lên rừng để bảo toàn lực lượng.



Cậu Hào là người bị thương trong trận này, chân bị gãy, xé áo băng bó vết thương và cố bò về cửa rừng. Bất ngờ nghe ai rên bên bụi cây, Hào ra mật khẩu nhưng không có tiếng trả lời, cậu ấy lên đạn, người kia lên tiếng :

- Xin anh đừng bắn em, em là con một, em là y tá không bắn ai bao giờ, anh tha cho em, anh có nước cho em xin một ngụm. 

Hào cố trườn đến xem anh ta bị thương chỗ nào rồi đưa bình tông cho anh ta uống, uống xong trả lại cho Hào rồi cũng nói được một câu :

- Cảm ơn anh đã không bắn em, nếu có ai đi qua đây anh nhờ họ khiêng em ra đường 1 may ra dân thấy họ cứu em, em là con một.

Hào cầm lấy chiếc bình tông nước và thấy không còn được bao nhiêu, trao lại cho cậu ta và bảo :

- Cậu cầm lấy mà uống.

Hào cũng thấm mệt và chui vào một bụi cây gần đó nghỉ lại, sáng hôm sau bò về cửa rừng, vừa đi được một quãng thì gặp mấy người rút lên sau, Hào bảo : 

- Phía đằng kia có thằng Ngụy bị thương nặng, chúng mày lại xem nếu nó còn sống thì cố khiêng nó ra bỏ dọc đường may ra dân biết cứu được nó. Khi tìm được thì người lính kia đã chết, kiến đã bu đầy 2 mắt, tay vẫn nắm chặt chiếc bình tông khắc 3 chữ NGUYỄN VĂN HÀO, một người kêu lên:

 - Bình tông thằng Hào.

Họ gỡ chiếc túi cứu thương trên người lính đối phương và đưa chiếc bình tông về báo cáo chỉ huy. Ông cán bộ Chính trị bắt Hào phải khai ra đã quan hệ với người lính kia như thế nào, nếu không nói thật sẽ chưa cho đưa về tuyến sau điều trị. Sau gần một ngày đôi co , cuối cùng ông Đại đội trưởng cũng ra được một quyết định tử tế:

- Thôi nó đang bị thương, đưa nó về tuyến sau điều trị đã, khi nào khỏi sẽ điều tra sau.


Cũng bởi sự cố “Thương người như thể thương thân” ấy mà vết thương bị nhiễm trùng, đi hết viện này đến viện khác và chân bị ngắn mất 3 phân. Cũng từ đó Hào vĩnh biệt cái Trung đoàn 6 anh hùng LLVTND, nơi đã mang đến cho Hào nhiều ngang trái, nhưng nơi ấy cũng cho Hào một cô vợ gốc Huế xinh đẹp, đảm đang, hiền thục. Cô nguyên là y tá của Trung đoàn, bị thương do B52 và cũng nằm hết viện này đến viện khác và gặp Hào ở Đoàn điều dưỡng 200.

Chiến dịch đánh xuống đồng bằng Huyện Phú Lộc diễn ra trong thời gian ngắn, nhiều vấn đề lớn cần đặt ra cho những người mở chiến dịch và lớn hơn là những người phát động chiến tranh phải suy ngẫm . 

Phú Lộc là huyện nằm dưới chân đèo Hải Vân có địa hình phức tạp, là địa bàn nối quân cảng Đà Nẵng với cố đô Huế bằng con đường độc đạo qua đèo Hải Vân, nếu để mất Phú Lộc khác gì để đối phương dí dao vào cổ. Phú lộc là địa phương có nhiều dân Bùi Chu – Phát Diệm chạy vào đây lánh nạn Cộng sản từ năm 1954, riêng làng Lăng Cô thì không có đối tượng khác lọt vào. Dễ gì “Quân Lực VNCH” chịu để mất Phú lộc. Tấn công đánh chiếm Phú Lộc chỉ duy nhất một mình E6, một đơn vị vừa chịu hao tổn lớn trong chiến dich Tây nam Huế . 500 quân vừa được bổ sung đầu tháng 10/1972 là đều là tân binh lần đầu tiên ra trận. Họ ngu ngơ còn hơn cả chúng tôi khi mới vào. Hành trang mang theo không có gì đáng kể. Mặt khác Phú Lộc là huyện giáp biển, xa nguồn cung cấp hậu cần của đường dây 559. Với thực trạng như vậy đem quân đánh chiếm Phú lộc khác nào đem trứng chọi đá, thất bại là điều khó tránh, sinh mạng người lính khác nào trứng chọi đá.

Trước lúc xuất quân, chính ủy trung đoàn xuống từng đơn vị động viên anh em, ông ấy nói như mật rót vào tai: 

- “Các em vượt qua dốc Ông Quyện, đạp qua đầu 11 đỉnh dãy Răng cưa, xuống đến đồng bằng các em sẽ được nhân dân chào đón như những vị cứu tinh đã mang hạnh phúc đến cho họ.” 

Nào ngờ vừa bước chân ra khỏi cửa rừng, tổ trinh sát của Tiểu đoàn 1 vấp quả mìn Claymo, cả 4 người chân bị cắt cụt, kêu la như bị tra tấn, ngay lập tức pháo từ Mũi Né bắn đúng đội hình hành tiến của K1, đơn vị chủ lực, 3 người của tiểu đội Tân bị pháo xé nát không phân biệt được thi thể của người nào, đành thu gom chia làm 3 phần chôn thành 3 ngôi mộ. 


Khó khăn ban đầu rồi cũng vượt qua, Trung đoàn cũng tiến ra đến đường 1 và đánh chiếm một số làng ven đường. Tuy nhiên nhân dân hầu hết đã bỏ vào Đà nẵng hoặc chạy ra Huế lánh nạn, mỗi gia đình chỉ để lại một người trông coi tài sản. mỗi làng chỉ còn lại dăm ba du kích làm nhiệm vụ dẫn đường. Bám trụ được vài tuần thì lương thực cạn kiệt, cơn đói lại ập đến, đói đến mức mà mấy anh du kích với khẩu AK lăm lăm trong tay gõ cửa từng nhà yêu cầu còn bao nhiêu gạo phải mang ra ủng hộ cách mạng. Số gạo thu gom chẳng đáng là bao lại phải chạy qua tây bắc huyện Hòa Vang tỉnh Quảng Nam xin viện trợ. Nhân dân Quảng nam lại khác hẳn : Gạo đựng trong thùng phuy đã được chôn sẵn trên các bãi cát . Trinh sát chúng tôi dẫn bộ binh bơi qua sông Thủy Tú chỉ việc lấy gạo về, gần trăm người bơi trên sông, 2 khẩu đại liên trên bốt gác đầu cầu bắn như vãi đạn, thế mà chẳng ai thương vong gì, tôi đem chuyện này nói với mấy cô giao liên, tỏ ý chê bai lính VNCH bắn kém, cô ấy cười đáp :
- Các anh mới qua chưa biết đó thôi ! Ở đây gia đình nào cũng có người tham gia 2 phía, bắn chết nhỡ bắn vào người nhà, anh.em mình thì sao ?


Tôi chợt hiểu ra 2 bên đã sống hòa hợp với nhau tự ngày nào, sao không lấy mô hình này nhân rộng ra cả nước, nếu làm được như vậy đất nước này đỡ nồi da xáo thịt có tốt hơn không!?


Chỉ trong vòng chưa đầy 6 tháng chứng kiến bao cái chết oan nghiệt của bộ binh. Người chết thì chôn lại người bị thương thì dìu nhau rút lên rừng. 

Viên Đức Việt năm thứ 3 khoa toán (10C- K3) là một trong những bạn xấu số nằm lại trong trận đánh vào ngôi làng dưới chân núi Thụ Lộc, thời gian trôi đi mọi người rồi cũng quên đi như quên bao liệt sỹ khác .



Thế rồi ngày 22/4/2010 Nguyễn Văn Tùng, quê Yên Thành, nguyên là Tiểu đội trưởng đi giao quân, xong việc nhìn lại con đường về Bắc quá xa xôi hiểm trở nên tình nguyện ở lại cùng chúng tôi vào trận, giải phóng Huế anh chuyển sang làm cán bộ Thương nghiệp, lấy vợ và định cư tại Huế. Về quê làm gi mẹ và mời CCB E6 đang sống tại Vinh ra nhà uống rượu, cùng ngồi một mâm đều là lính E6, Cậu Kha tự giới thiệu :
- Em ở C2 K2

Tân hỏi luôn :

- C2K2 có biết thằng Viên Đức Việt không ?

- Viên Đức Việt, em chôn hắn, chôn trong vườn anh Thái du kích, ngôi làng ấy nằm dưới chân đồi Thụ Lộc.

- Mày còn nhớ làng ấy không ?

- Nếu đến được núi Thụ Lộc thì sẽ nhận ra làng ấy 

Tôi hỏi :
-  Nếu bây giờ tổ chức đi tìm nó mày có đi được không? 
Kha thành thật trả lời :

- Đi được nhưng tiền đi đường thì hơi kẹt.


Người Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Tùng  bây giờ.
Ngay chiều hôm đó chúng tôi về tìm tung tích gia đình Việt. Tân chỉ nhớ hình như ở khối 2 HHT, ông khối trưởng chẳng mất nhiều thời gian để chỉ ra ngôi nhà của em trai Việt . Được biết gia đình Việt dính vào họa xua đuổi người Hoa năm 78,79, Chả là cụ cố của Việt chạy loạn sang đây và chọn Việt Nam là là quê hương và cụ đã quên đi đất nước đã ruồng bỏ mình nên cụ chẳng dạy cho con cháu một chữ hay một tiếng Hoa nào, thậm chí cụ cũng chẳng cho ai biết quê quán mình nơi đâu.
Năm ấy chính quyền địa phương làm ghê lắm, ngày nào cũng cho người đến thúc ép gia đình Việt phải về Trung Quốc. Về đâu bây giờ, một chữ bẻ đôi không biết, may ra nói được từ Hảo! Hảo!



Mấy người em Việt vì quá sợ hãi mà đứa thì lên Cao nguyên đứa vào Sài gòn kiếm sống. Riêng bà mẹ Việt thì cương quyết không đi , mỗi khi công an, dân quân đến nhà là bà lại bảo cậu con trai chưa đầy 17 tuổi và cô gái út bê tấm bằng “Tổ quốc cắt cơm”, bà ngồi sau tấm bằng và nói với mọi người :

- Con tôi đã chết cho Việt Nam . Các ông đưa nó đi làm nó chết nay xua đuổi chúng tôi thì đưa xác nó về đây để đưa nó đi cùng, để nó ở lại ai hương khói cho nó, khi nào các ông đưa nó về là chúng tôi đi, chẳng cần các ông mất công xua đuổi ! Đã đến nước này thì chúng tôi cũng chẳng muốn ở lại đất nước có cái chính quyền vong ân bội nghĩa này làm gì nữa.



Mỗi lần có người đến là bà giở chiêu ấy ra. Rồi dần dà người ta cũng nhận ra cái chủ trương bất nhân ấy và họ cũng lờ đi nên gia đình bà vẫn ở lại ngôi nhà cũ. Có điều vì uất hận và thương nhớ đứa con đầu lòng ông bà đặt nhiều hi vọng.giờ đây không biết chôn vùi ở phương trời nào nên năm 1991 bố Việt qua đời trong tức tởi , 3 năm sau đó mẹ Việt cũng theo ông mà ra đi, vợ chồng người em út lo việc mưu sinh và cũng chưa một lần nghĩ đến việc đi tìm mộ anh trai mình. 
Nghe chúng tôi đặt vấn đề, vợ chồng chú Lợi, Quang mừng như thể thấy Việt sống lại trở về. 


Tại cuộc gặp mặt anh em hội Cựu SV ĐH Vinh- CCB E6 nhân ngày 30/4, vấn đề tìm mộ Việt được đưa ra trao đổi, mọi người nhanh chóng thống nhất và ủng hộ đủ tiền cho cậu Kha làm lộ phí đi đường, tôi lại được mọi người tín nhiệm cử làm trưởng đoàn. Vào tới Huế điều thêm Tùng, bởi cậu ấy đang làm Gíam đốc Công ty thương mại, có nhiều mối quan hệ khi cần có thể vận dụng. Vừa xuống xe tại chợ Thừa Lưu , Núi Thụ Lộc hiện ra trước mặt, mấy người xe lai chạy lại :
- Các bác có phải đi tìm mộ liệt sĩ không ?

- Sao các cậu biết bọn này đi tìm mộ liệt sĩ ?

- Nhìn bộ dạng và cách ăn mặc là biết ngay thôi mà. Nếu các bác đi tìm mộ liệt sĩ thì em dẫn về nhà, trong vườn nhà em có ông giải phóng chết năm 72 và chôn trong vườn nay vẫn chưa có ai nhận !

Một luồng điện chạy dọc xương sống. Chẳng lẽ lại thuận lợi thế này 

Kha nhìn chằm chằm vào một người rồi dè dặt hỏi :

- Cậu có phải là Thái du kích không ?

- Anh là ...

- Mình là Kha !

- Trời đất ! Anh Kha !

Hai người ôm nhau khóc như thể anh em ruột thịt xa nhau lâu ngày gặp lại 

Ngồi sau xe Thái, tôi dặn :

Về tới nhà cậu khoan chỉ nơi chôn ông ấy để xem Kha có nhận ra không !

Xe dừng Kha chạy ra góc vườn nằm lăn ra trên vũng nước khóc như thể người vợ có chồng chết oan.

Thái bảo với tôi :
- Đúng chỗ anh ấy nằm đấy, năm 79 cất bốc về nghĩa trang dưới chân núi Thụ Lộc rồi, gia đình chúng tôi đội ơn ông ấy đã phù hộ cho các con tôi học hành thành đạt, tháng nào gia đình cũng lo hương khói cho ông ấy, ông ấy nằm ở hàng thứ tư từ trong ra, mộ số 7 từ trái sang 
Rất thuận lợi cho anh em chúng tôi, một trong những người du kích chôn cất Việt năm xưa nay là Bí thư Đảng ủy. Mọi thủ tục pháp lý được tiến hành nhanh chóng, sau 2 ngày ngôi mộ ấy đã được gắn bia “Liệt sĩ: Viên Đức Việt , sinh 1952 Khối 2 HHT- HS 1972”



Nghe theo lời khuyên của nhân dân địa phương, mấy người em của Việt đã quyết định để anh mình nằm lại nơi đây bởi ở đâu trên đất nước này cũng đều là quê hương của Việt. 
Thái nói trong nghẹn ngào:

-  Được như vậy thì phúc cho nhà em, nếu các bác đưa anh ấy về Bắc thì em lại thấy như mình mất đi một người ruột thịt.

Anh chị em Việt thống nhất cứ 5 năm một lần, trong Nam ngoài Bắc tập trung về nhà anh Thái làm vài mâm cơm cúng gi Việt, đồng thời tri ân mấy anh chị du kích năm nào.

Khi thắp hương chào Việt ra về, cậu Lợi nói trong từng tiếng nấc :

- Em mong anh phù hộ cho em sống đến ngày thấy nhân dân đào mồ thằng đã gây ra cảnh li tán cho gia đình ta, khi đó em sẽ vào báo với anh rẳng:Kẻ gây ra tội ác đã phải đền tội !

- Bà V, Cô ruột của Việt an ủi :

- Thôi ! Gác lại hận thù đi cháu, ông ấy gây ra nhiều thảm họa cho đất nước này chứ riêng gì vụ người Hoa

Chuyện tìm mộ Việt như một giấc mơ dài.


Ai học 10C - K3 ĐHSP Vinh sẽ còn nhớ mãi đến cậu SV nhỏ con có đôi chân vòng kiềng, nhiều người vẫn quen gọi bằng cái tên cúng cơm là Viên Đức Nung, hay đá bóng nhưng đá chưa hay như "Ba Đẻn", nếu đang sống tại TP Vinh có dịp đi trên đường Hà Huy Tập xin hãy dừng chân trước ngôi nhà 284, nơi ấy có bàn thờ Viên Đức Việt do vợ chồng người em trai út tháng ngày chăm nom.

- Tôi không tin vào các Trung tâm ngoại cảm, cũng chưa đủ thực tế để tin vào tâm linh . Có lẽ ông trời đã thấu nỗi đau của gia đình Việt nên đã xếp đặt để chúng tôi cùng vợ chồng chú em trai út đi tìm và trả lại tên cho anh ấy . Từ nay ở nơi chín suối chắc bố mẹ Việt cũng bớt đi phần nào nỗi đau trần thế.

Đánh xuống đồng bằng Phú Lộc có sự tham gia của 2 thầy giáo mà tôi sẽ đề cập đến trong bài viết này, đó là thầy Trần Dương – Giảng viên K7( Khoa đào tạo giáo viên cấp 2) là cháu của viên quan Đốc lương thời Pháp, thế nhưng nạn đói năm 1945 cả nhà thầy có 7 người chết đói, chiếu không đủ để chôn, như thế đủ biết ông quan của Chủ nghĩa Thực dân kiểu cũ “xấu xa thối nát” đến nhường nào. Cách mạng đến cũng là thời suy sụp của gia đình Thầy, bố mẹ Thầy nên duyên nhưng chưa ràng buộc về con cái, đành mỗi người một nơi kiếm sống với lời hẹn ước : Nếu sau hai năm vẫn còn sống thì sẽ đoàn tụ lại, người cha thầy chạy sang Tràng Kè – Yên Thành làm thuê cuốc mướn, mẹ lên Môn Sơn Lục dạ làm con ở cho một gia đình buôn gỗ giàu có. Được một năm nghe tin người ta khiêng bố thầy về nhà chờ chết, mẹ thầy trốn về gặp chồng.


Thật kỳ diệu , với sự chăm nom của bà, bố thầy dần bình phục và khỏe mạnh trở lại. Năm 1947 Thầy được sinh ra trong niềm vui vô bờ, mẹ thầy quyết cho con theo nghiệp đèn sách, thậm chí những buổi lao động của học sinh do trường tổ chức, bà đi làm thay để con có thêm thời gian học hành, Thầy đã không phụ lòng bố mẹ, học xong đại học và được nhà trường giữ lại làm giảng viên , những tưởng yên thân trên đường sự nghiệp, sẽ là chiếc đầu tàu kéo năm đứa em. Nào ngờ Thầy cũng như tôi, nhà 3 con trai chưa có ai đi lính, nên phải lên đường. Không may mắn như một số cặp vợ chồng khác, thời gian huấn luyện chị Liền - Vợ Thầy cũng lên thăm hai lần nhưng cả 2 lần đều về không .


Vào Nam, là người to khỏe nên được phân công sử dụng khẩu B40. Trong trận chống phản công của QLVNCH, nấp trong ngôi nhà, gác nòng súng qua cửa sổ để bắn, chiếc xe tăng bốc cháy nhưng  bị lửa phụt ra từ phía sau của quả đạn B40 quật lại đốt cháy tấm lưng Thầy. Anh em kịp thời băng bó vết thương và chuyển về trạm phẫu thuật tiền phương. Nghỉ lại đó 2 ngày rồi cùng 7 thương binh khác đi bộ về tuyến sau điều trị, đi được một ngày, dừng chân nghỉ lại hậu cứ của quân ta bỏ lại nằm bên nương sắn. Thật chẳng có gì vui hơn khi gần tháng trời chịu đói, cậu y tá nhổ sắn luộc chiêu đãi mọi người, sáng ra Thầy kêu đau đầu và toàn thân nóng ran. Cậu y tá nghĩ thầy lên cơn sốt rét và tiêm thuốc cắt cơn để đi tiếp, nào ngờ khi rút kim ra thì thấy Thầy giật giật rồi tắt thở, lúc đó khoảng 7h ngày 20/12/1972 . Cậu y tá biết mình đã tiêm lạc thuốc, cậu ấy không nghĩ được rằng thầy là người chỉ ăn vài miếng thôi nhưng do bị thương nặng, sức đề kháng đã không còn nên đã bị say sắn, một thứ sắn hoang lâu ngày. 


Nghĩa trang Liệt sĩ Huyện Nam Đông, nơi chôn cất Liệt sĩ Lễ
hiện vẫn chưa xác định được mộ.
Những người thương binh đi vòng quanh xác thầy để vĩnh biệt người đồng đội dũng cảm mà xấu số. Người y tá ở lại tìm vào bản, nhờ mấy thanh niên người dân tộc chôn cất thầy bên vệ đường , xong công việc quay trở lại trạm phẫu thuật tiền phương. Đó là những thông tin do cậu Phong CCB -E6 quê Trung Thành - Yên Thành là một trong bẩy thương binh năm ấy cung cấp. Khi được hỏi : -  Cậu còn nhớ nơi đó không ?
Cậu ta trả lời :
- “Từ đó vượt qua một con dốc dài nhưng không cao lắm, đi qua một con khe rộng, đến khoảng 3 giờ chiều gặp đường ôtô. Đặc điểm như thế thì biết đâu mà tìm, cũng chẳng trách được cậu ấy, là lính bộ binh dẫn đi đâu biết nơi đó” 

Người mẹ già của Thầy Lễ nay đã 98 tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn,,
hàng ngày vẫn ngóng chờ tìm được mộ con trước khi nhắm mắt
Sau rất nhiều nguồn thông tin được chắp nối từ CCB- E6, đối chiếu với thời gian tác chiến của Trung đoàn, chúng tôi nhận định Thầy được chôn trên con đường giao liên của Trung đoàn 4. Từ Phú Lộc đi A Dài nay thuộc huyện Nam đông - Khe Tre, rồi cũng lần ra người y tá năm ấy tên là Thích quê Quỳnh Bá, Quỳnh lưu, NghAn. Hôm tìm ra nhà cũng vừa đến bữa cơm trưa, để khỏi phiền gia đình nên mấy người vào quán cơm bình dân bên đường dùng bữa, hỏi thăm được biết : Đây là quán của con gái Thích, cô cho biết : Bố cô đã qua đời cách đây 3 năm sau một thời gian bạo bệnh, tưởng chừng các công việc tìm kiếm thầy đã đi vào bế tắc. Đó là kết cục của một giảng viên đại học đã tuyệt đối trung thành đi theo tiếng gọi của Đảng.


Người giảng viên thứ 2. Trước lúc viết về Thầy tôi đã gặp và xin phép nhưng Thầy cương quyết từ chối, Thầy nghiêm giọng : 
- “Chuyện xẩy ra cũng đã lâu rồi, nhân tình thế thái, thời nào cũng thế, rơi vào ai ngưi ấy chịu.”

- “Thầy ơi, Thầy là người em hằng tôn kính, em chưa khi nào gọi khác ngoài từ THẦY, kể cả những khi thầy trò chung các cuộc vui, đến giờ phút này em đã nghe Thầy tất cả, kể cả việc Thầy khuyên em khi em hỏi thầy cần làm thương binh thì em sẽ lo trọn gói cho cả 2 thầy trò, thầy đã nghiêm nét mặt nhìn em tôi mà nói :

- “Mình sống trở về thế này là quý lắm rồi, hơn bao nhiêu người cùng đi với ta nay thân xác chẳng biết vùi ở nơi đâu, mình không bị thương là tốt, mình làm thương binh mấy chục Liệt sĩ cùng nhập ngũ nó lại bảo: “Chúng mày là những thằng kẻ cắp sau chiến tranh . Hơn nữa nếu làm được đâu chỉ bằng nước bọt, vẫn biết cậu quan hệ rộng, quen biết nhiều, nhưng thời nay đâu chỉ nước bọt mà xong, cũng phải tiền nong, lạy lục cúc bái. Ngày xưa Chu Văn An quỳ gối dâng sớ “Thất trảm” thì được người đời lưu danh, cậu quỳ gối để kiếm thêm tháng dăm bảy trăm ngàn đồng thì không nên cậu ạ ! Em đã nghe thầy và đến bây giờ thấy Thầy nói đúng, ăn ngon ngủ yên, chẳng giật mình khi vô tình nghe ai đó nhắc đến 3 từ “Thương binh giả”. Tuy nhiên nhiều khi thấy cũng chạnh long. Ba năm chiến trường như ba năm tù đày bởi án oan sai nhưng không được đòi bồi thường, cả Thầy và em trở thành người không có công. Đứng ngoài hội trường nhìn một số kẻ mạo danh “ người có công” hoan hỷ lên nhận 200 ngàn đồng do Chủ tịch nước trao tặng nhân ngày TB-LS mà đau lòng.


Lần này em xin một lần bất nghĩa với thầy. Em sẽ viết, em phải viết. Thầy không đồng ý em cũng viết, bởi chuyện về Thầy nhiều người đã biết, nhưng viết để mọi người biết thêm những điều mà họ còn chưa biết !”
Ngày 1/5/1972 cô lên thăm thầy, trong bữa cơm thân mật chiều hôm ấy, thầy ghé tai cô:
- “Đúng 3 năm sau, nếu anh không về, dù có giấy báo tử hay không, em vẫn được phép đi lấy chồng.”
Sáng hôm sau chúng tôi phải lên đường hành quân đi B. Vào đại đội trinh sát, mỗi lần cùng các Thủ trưởng đi xuống các đơn vị bộ binh, cánh lính trẻ đều cúi đầu nhìn Thầy : - Chào thủ trưởng!
Thậm chí thu được ít chiến lợi phẩm như dăm hộp dò Balat, hay vài bao thuốc lá Rubiquen cũng mang ra mời Thầy trước. 

Các thủ trưởng "thật" thấy điều đó tỏ vẻ khó chịu, khó chịu đến mức mà họ không cho Thầy đi cùng nữa và bố trí Thầy sang bộ phận nuôi quân. Mỗi lần hành quân chuyển hướng chiến dịch, trên vai mang vác cũng như người khác Thầy còn cõng thêm 3,4 chiếc nồi quân dụng thay cho khẩu AK, mỗi lần xóc vai cho đỡ mỏi lại phát ra những tiếng loảng xoảng, sợ lộ bí mật hành quân, tay Chính trị viên phó đại đội trừng mắt nhìn thầy :
- Đi như cái con b.( Ông ấy ít hơn thầy 3 tuổi, quê Tứ Kỳ, Hải Dương, khi nghỉ hưu mang hàm Đại tá, Chủ nhiệm chính trị  tỉnh đội) .
Nhìn Thầy chẳng khác chi con lạc đà trên con đường tơ lụa . Thương Thầy nhưng cũng mừng cho Thầy bởi chỉ số an toàn đã được nâng lên chút ít ! Một lần Trung đoàn trưởng ghé thăm đơn vị thấy thầy đang lúi húi chùi xong nồi, ông ấy động lòng thương, ai lại để một anh giáo viên ĐH làm công việc mà thằng mù chữ vẫn làm tốt và ông đã quyết định đưa Thầy về Trung đội Vệ binh làm nhiệm vụ gác cổng hậu cứ Trung đoàn Bộ . Một hôm ông Hiệu trưởng trường Hạ sỹ quan lên trung đoàn nhận nhiệm vụ, khi đi qua chòi gác thấy người lính gác có vẻ khác thường, ông bắt chuyện và rõ sự tình, ông đã đề nghị Trung đoàn trưởng cho ông xin Thầy về dạy xóa mù cho số du kích vừa đưa từ đồng bằng lên, tuy xóa mù chữ nhưng dẫu sao thì cũng là dạy học, điều quan trọng hơn là từ đây tính mạng của Thầy coi như đã được bảo đảm, bởi từ mặt trận đi lên Trường Hạ sỹ quan phải đi bộ gần một ngày đường . Công việc cứ thế cho đến ngày giải phóng Huế 25/3/1975, rồi cũng nhờ sự tác động của ông Hiệu trưởng Trường Hạ sỹ quan mà thầy được ra quân về Bắc sớm hơn chúng tôi.


Ngày 1/5/1975 về gặp lại vợ con, sau đúng 3 năm xa cách. Giọt máu thầy để lại 3 năm trước nay đã là cậu con trai kháu khỉnh vừa tròn 2 năm 3 tháng tuổi, có điều cả 2 vợ chồng dỗ đủ mọi cách nó vẫn không cho Thầy chạm vào người. Ba năm ở chiến trường nếm đủ đắng cay tủi nhục Thầy vẫn chưa hề rơi một giọt nước mắt, thế mà hôm ấy nước mắt lưng tròng.
- Lại đây với bố đi con ! Bác là bố con đây !

Nó nhìn mẹ thăm dò rồi ùa đến ôm chầm lấy Thầy như sợ thầy bỏ đi mất. 

Nếu không có gì thay đổi, một thời gian rất ngắn nữa “cậu bé ấy” sẽ bảo vệ thành công Luận án Tiến sỹ trên đất nước bạn. 


Về lại trường tiếp tục làm công tác giảng dạy, những tưởng từ đây đường công danh sự nghiệp đã xuôi chèo mát mái, nào ngờ mùa tuyển sinh năm 1997 thầy đã vi phạm quy chế thi, nâng điểm môn mình chấm thi cho một nữ thí sinh, sự việc được một đồng nghiệp cùng tổ, nguyên là trò cũ của Thầy phát đơn tố giác. Nhưng rồi lại được một trò cũ cùng nhập ngũ với chúng tôi khi đó đã là Phó Hiệu trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy nhà trường lấy sinh mạnh chính trị của mình bảo đảm rằng thầy không vì tiền hay một động cơ xấu nào khác. Tuy nhiên Thầy vẫn phải chịu một hình thức kỷ luật : Đình chỉ giảng dạy một năm, điều về Phòng khoa học nghiên cứu tài liệu. Với hình thức ấy chắc chưa làm hài lòng người tố giác, nhưng mọi người thấy có thể chấp nhận được còn Thầy cũng cũng cảm thấy được yên lòng.

Một năm nhanh chóng qua đi, bằng sự nỗ lực phấn đấu, Thầy đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sỹ khi vừa tròn 55 tuổi cùng với việc Nhà nước ghi nhận sự đóng góp của Thầy cho nền khoa học bằng việc phong hàm Phó Giáo sư lúc thầy sắp bước vào tuổi 60. Thầy vẫn thường đùa : Mình ghi bàn ở phút bù giờ. 
Cách đây 2 năm chúng tôi cùng thầy vào Thạch Hà tìm thông tin về cái chết của LS Tô Quang Vượng là SV- K7, Thầy bảo tôi lái xe đến xã Thạch Bằng thăm một người quen. Xuống xe, vừa gặp chủ nhà, thấy 2 người ôm nhau khóc. Tiếng khóc của những người ở tuổi cổ lai hy nghe khậc khậc như có cái gì mắc ở cổ 
- Tôi xin chú ! Chú tha lỗi cho tôi, nếu năm đó tôi cho cháu thi vào trường khác thì chú đã không phải chịu kỷ luật như thế !

- Không ! Anh không có lỗi gì cả! Lỗi là do em .

Nghe hai người sụt sùi với nhau rồi chúng tôi cũng thầm hiểu ra: Cô nữ thí sinh mà thầy nâng điểm năm nào là con gái chủ nhà, mặc dù tóc ông đã bạc nhưng tôi vẫn nhận ra ông :

- Anh Thành ! Đúng anh Thành rồi.

Ông Hiệu trưởng Trường Hạ sỹ quan năm nào, người mà Thầy mang ơn cứu mạng. Sau giải phóng vì là con địa chủ nên họ không dùng ông nữa và cho ông về hưu trước tuổi.
Trên đường trở về Vinh Thầy tâm sự :

- Biết con gái anh ấy thi vào trường, mặc dầu không nhờ vả gì, nhưng để chắc suất đậu, mình đã nâng điểm môn mình chấm thi cho cháu, nếu để cháu trượt còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy. Cậu học trò cũ cùng tổ cho mình kiếm chác gì ở trường hợp này mà không chia cho cậu ấy nên đem lòng phản trắc. Khi biết điểm thi của cháu nếu mình không nâng vẫn thừa điểm đậu, sau sự việc cháu bị xóa tên khỏi danh sách trúng tuyển, mình ân hận vô cùng và từ đó tới nay không dám gặp anh ấy, hôm này đi cùng các cậu mình mới dám vào thăm, có lẽ đây là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời mình. 
Còn tôi lại nghĩ khác : Tình đồng đội của những người lính chiến năm xưa đã vượt lên cả luật pháp, vượt lên rào cản của mọi nội qui, qui chế do con người đặt ra, cái tình ấy không có khuôn vàng thước ngọc nào đo được.
Nếu ai tò mò muốn biết thầy là ai, xin hãy hỏi Giao Trần ,chắc anh ấy không nỡ lòng từ chối bạn.

Đầu tháng 1/1973 , chiến dịch đánh chiếm đồng bằng Huyện Phú Lộc kết thúc. Tiểu đoàn 1- Đơn vị chủ công có nhiệm vụ đánh chặn để các đơn vị khác rút lên rừng. Tôi cùng Lý “Nhắng”, quê Thanh Hóa có nhiệm vụ tháp tùng Trung đoàn trưởng Trần Lưu Chử đi theo đường Hói Mít lên dốc Ông Quyện, qua đường 14 về Nam Đông, Khe Tre. Đang vượt dốc thì gặp cậu Kính, quê Hưng Nguyên (Nghệ An) cùng một lính vệ binh áp giải 4 tù binh chân trần nhúc nhắc đi lên, Kính đề nghị :
- Xử lý bốn thằng này thế nào chứ để chúng đi như rùa thế này khi nào mới vượt qua khỏi tầm đạn pháo được Thủ trưởng ơi.

- Lính tao còn chưa có gạo mà ăn, đưa chúng lên rồi cũng chết đói cả thôi.

Nói xong ông tiếp tục đi và ra một mệnh lệnh khó hiểu :

- Thôi thì.

Sau chữ “thôi thì” là một cái vẩy tay

Tôi cùng mấy người theo ông vượt dốc đi lên, đi chưa được bao xa thì nghe ba loạt AK nổ thất thanh, vẻ như súng bị cướp cò, ông ấy bảo tôi:

- Cậu quay lại xem chuyện gì ?

Tôi nhanh chóng lao xuống dốc, một cảnh tượng hãi hùng: Hai tù binh nằm trên 2 vũng máu bất động.

- Sao anh lại bắn họ ?

- Lúc nãy mày không thấy ông ấy ra lệnh à ?

- Ông ấy đã bảo anh tha cho chúng nó là gì 

- Tao thả chúng, về ông ấy còn cho tao sống nữa hay không ?

- Còn 2 thằng kia đâu ?

- Chúng chạy thoát rồi. 



Tôi nhanh chóng đuổi theo Trung đoàn trưởng để báo cáo lại sự việc. Trung đoàn trưởng Chử là người nổi tiếng nóng tính và nghiêm khắc, đã từng được phía bên kia treo giải nếu ai lấy được đầu ông ấy thì được thưởng lớn.
Nghe xong ông ấy bảo :
- Thôi thì cũng là số phận, đưa chúng lên làm sao chịu đựng được như anh em mình, trước sau rồi chúng cũng chết. Thôi cậu ở lại cùng hai thằng kia chôn cất chúng nó cẩn thận, đừng để thêm ai biết chuyện, 2 thằng bỏ chạy không truy lùng nữa.

Tôi quay lại chặt mấy tàu lá cây đoác phủ lên 2 xác chết rồi cùng 2 người đào hố để chôn. Trong lòng chưa yên, nên bảo cậu Kính :

Tôi và anh mỗi người bỏ ra một bộ quần áo dài thay áo lính kia cho họ kẻo nhỡ K1 rút lên bắt gặp thì biết giải thích thế nào. 

Thay áo quần cho 2 người xong lại tiếp tục đào. Quân K1 thất thểu lác đác đi qua, ai hỏi tôi cũng nhanh nhảu trả lời :

-Hai thằng lính K2 đi lên đến đây bị sốt ác tính, cấp cứu không kịp nên chết và buộc phải chôn lại đây.

Đang lúi húi đào, tôi nhận ra ngay tiếng cậu Tân:

- H Mày làm chi đây ?

Vẫn câu trả lời như máy 

- Có cần bọn tao giúp gì không ?

- Mày cứ đi theo đơn vị, bọn tao cũng sắp xong rồi.

Lúc đặt tử thi xuống hố, cậu Kính nhận xét:

- Hai thằng này son hơn quân ta rồi đấy, chúng nó được thay áo lành, quân ta chết sao chôn vậy, có khi xác tanh bành, chẳng nhặt được mà chôn . 


Chiều hôm ấy tôi cũng đuổi kịp Trung đoàn trưởng và báo lại sự việc, nghe xong ông ấy bảo :
- Cậu thông minh lắm ! Sau chiến dịch này cậu lên ở với mình .
Ý ông muốn nói là sẽ điều tôi lên làm công vụ cho ông, một công việc mà ông ấy đi đâu thì lẽo đẽo theo sau như con chó trung thành với chủ . Nói thế nhưng chưa kịp ra quyết định điều động tôi thì có thể với “chiến công vang dội” trong chiến dịch vừa qua: Bắn cháy 2 xe tăng địch, bắt sống 4 tù binh, đánh sập cầu Thừa Lưu, phá hỏng vài ba đoạn đường tàu, cắt đứt huyết mạch giao thông nối Đà Nẵng với Huế trong vòng gần 1 tháng v.v...nên ông được cấp trên cho ra Bắc an dưỡng và đi đào tạo cán bộ trung cao cấp. Năm 1984 gặp lại ông với hàm Đại tá Sư trưởng Sư đoàn 341 tại Hội nghị tổng kết công tác quản lý quân do Quân khu tổ chức tại Tiểu đoàn tôi. Đem chuyện cũ nhắc lại :

- Nếu hôm ấy thủ trưởng ra một quyết định rõ ràng hơn, có thể số phận 4 tù binh kia chắc đã khác !?

- Khác sao được hả mày. Nếu tao bảo giết chúng đi, trung đoàn trưởng mà vi phạm chính sách tù hàng binh thì còn nói ai được nữa ?! Còn nếu bảo tha cho chúng, mày có biết 4 thằng kia đã giết chết bao nhiêu lính của tao không? Hơn nữa cả Tiểu đoàn 1 đang rút lên ngay sau đó, bắt gặp tù binh được thả ra, thử hỏi những trận đánh sau tiểu đoàn ấy có làm tròn nhiệm vụ của một đơn vị chủ công hay không ?

Trước lý lẽ không thể chặt chẽ hơn của ông tôi đành chấp nhận:

- Nhưng dù sao cũng thương 2 thằng chết, còn 2 thằng kia không biết có chạy thoát được hay lại trúng đạn chết rục xương trong rừng.

Ông ấy vỗ vào vai tôi:

- Thôi, can đảm lên ! Đã lên đến Tiểu đoàn trưởng rồi thì phải cứng rắn lên, chiến tranh mà cậu.
Ảnh minh họa
Tôi không thể phát triển lên cao trong quân đội được bởi mỗi mệnh lệnh của mình luôn phát ra từ con tim chứ không tính toán thiệt hơn như người khác, minh chứng cho việc này là ngày 15/8/1987 tôi có quyết định chuyển ngành khi mà bốn tháng sau đến hạn thăng hàm thiếu tá vào dịp ngày thành lập Quân đội. Nhiều người tỏ ra nuối tiếc cho đường binh nghiệp của tôi, còn “Viên bạch ngọc” thì không, cô ấy cười :“ Đầu đường Trung tá vá xe, cuối đường Thiếu tá bán chè đậu đen”, đừng nhận thiếu tá mà phải đi bán chè, cứ ở nhà với mẹ con em, nếu thiếu thốn em bao, miễn là đêm nào cũng được ôm anh ngủ là hạnh phúc rồi. Lời của cô ấy như khích lệ để tôi phấn đấu, không thể là thằng ăn bám vợ.

Viết ra được những dòng này lòng tôi như nhẹ đi phần nào. Như một nén tâm hương thắp cho hai người xấu số và mong đây là thông điệp gửi tới 2 người lính kia nếu như các anh còn sống, nếu đọc được những dòng này mong các anh hãy nói cho tôi biết: Họ đã bắn các anh như thế nào? Làm sao các anh chạy thoát được ? Bởi sau đó không lâu khi Trung đoàn quay lại đánh Đồi Bông, Đồi Nghệ, cậu Kính cùng Quỳnh và Tấn trên đường đi nắm địch đã bị phục kích, cả 3 người không ai trở về khi tôi chưa kịp gặp cậu Kính để hỏi.


Thật trớ trêu, năm 2014, khi đi vào Phú Lộc xác định nơi Trạm phẫu thuật tiền phương đừng chân cuối năm 1972, gặp lại mấy du kích thời đó, tôi hỏi :
- Mấy ngôi mộ trên dốc Hói Mít đã cất bốc hay chưa ?

- Tất cả các ngôi mộ chôn rải rác dọc đường rút lên của quân ta năm ấy đều đã bốc và đưa về nghĩa trang của Huyện . 

Vậy là cậu Quỳnh, cậu Kính, cậu Tấn và các đồng đôi khác của tôi cùng nằm chung với 2 tù binh năm nào. Khi nghe kể lại chuyện này, một số người bất bình bảo : 

- Sao lại lộn xộn như thế được.

Tôi lại nghĩ khác: Phía chúng ta, những NGƯỜI NHẬP NGŨ, còn bên kia là KẺ BỊ BẮT LÍNH . người nhập ngũ và kẻ bị bắt lính chẳng có tội tình gì, cũng chẳng thù oán gì nhưng phải đấu súng bắn giết lẫn nhau, nay họ đã chết, người Việt có câu : Nghĩa tử là nghĩa tận. Hơn nữa đều đã trở thành những Liệt sĩ vô danh, còn có gì khác nhau nữa đâu mà phân biệt đối xử.

Tuy không cấp chỉ huy nào nói ra cụ thể, nhưng theo tin đồn cùng với hướng và đường hành quân, anh em trinh sát phán đoán: Trung đoàn đang được cấp trên cho lui về tuyến sau để an dưỡng và củng cố lực lượng. Nghe đâu sẽ ra đến QK4. Ngày thứ 2 đã vượt qua đường HCM tại Km 103 nằm giữa A Sầu và A Lưới. Con sông A Sáp thật nên thơ, nước trong xanh nhìn thấu đáy. Lội qua con sông nước chỉ ngang thắt lưng, nếu được dừng chân thỏa sức ngụp lặn sau hai ngày hành quân và sau gần tháng trời chui rúc sình lầy nơi đồng bằng Phú lộc thì còn gì sướng bằng. Nhưng động cơ sẽ được ra Bắc làm mọi người quên đi tất cả, thậm chí chẳng cần nghỉ giải lao như khi hành quân đi vào.

Nơi rừng già hoàng hôn buông sớm, đại đội trinh sát được phân công nghỉ lại một bản dân tộc ít người. Anh Lê (C trưởng) cùng tôi, Hiếu (khoa lý), Lương (liên lạc) và Lính (khoa văn) nghỉ tại nhà hai mẹ con cô gái có tên Ên, làm công tác phụ nữ của bản. Vừa bước chân lên cầu thang, mấy cậu lính trẻ chúng tôi như người mất hồn, chủ nhà là một cô gái chừng 29-30 tuổi, chỉ có tấm thổ cẩm quấn quanh che từ bụng trở xuống, bộ ngực căng tròn như 2 chiếc bát úp nhảy múa theo từng nhịp đi trên sạp. Mắt anh nào cũng lấm la lấm lét, đảo ngược đảo xuôi nhưng rồi vẫn biết dừng lại lâu nhất nơi cần dừng. Riêng cô chủ vẫn xởi lởi như chẳng có việc gì xẩy ra. Phía góc nhà mẹ cô vẫn phô ra bộ ngực trần chảy dài, đen sạm.


Tối hôm ấy chúng tôi quây tròn bên bếp lửa, anh nào cũng muốn chen ngồi đối diện để được ngắm toàn cảnh báu vật trời ban. Tuy không trắng trẻo nõn nà như gái Kinh, nhưng giữa nơi rừng thẳm sương dày, nơi khỉ ho cò gáy mà có được thế này thì cũng chẳng khác chi phần thưởng cao quí mà Chúa ban thưởng cho những thằng lính vừa từ cõi chết trở về.
Ban đầu chẳng ai nói gì, mà cũng chẳng cần nói gì, thậm chí không có mồm cũng chẳng sao, chỉ cần đôi mắt phát huy hết tinh lực là đủ. Nhưng rồi với sự bạo dạn của chủ nhà cộng với sự từng trải của anh Lê, người đã có vợ và 2 con nên bầu không khí cũng bớt đi trầm lắng.

Vào chuyện anh Lê hỏi :

- Ở độ cao này lạnh thế, khi đi nương rẫy đồng bào mặc thế không lạnh à?

- Không, quen rồi. Con trai mặc khố, con gái mặc thế này thôi. Chỉ che từ bụng thôi. Ngực không ai che, ngực ai cũng thích mà. Con gái cũng thích, con trai cũng thích, ông già cũng thích. Ai cũng thích thì sao lại che. Người dân tộc mình có câu : “Vú đàn bà là quà cả bản” mà.

Chả trách gì mà cô ấy là Hội trưởng phụ nữ của Bản, cô nói tiếng Kinh còn ngọt hơn dân Nghi Lộc quê tôi.

Có thể cô ấy nói đúng, người Kinh cũng có câu “ Vú đàn bà là quà đàn ông”. Có điều người Kinh không thẳng tính và minh bạch như họ.

Anh Lê đùa:

- Chồng Ên đi công tác lâu ngày vậy, nó theo cô nào Ên có ghen không?

- Không! Ta không ghen ! Nó cải thiện thì ta cũng cải thiện.

Lại thế nữa, còn biết cả "cải thiện". 

- Ở nơi heo hút thế này biết cải thiện với ai ?

- Có chứ, khi nào bộ đội đi qua thì ta cải thiện, ta ưng bộ đội hung.

Nói rôi cô ôm lấy đầu gối anh và cười như nắc nể. Cặp bồng đào trùm lên một bên đầu gối anh ấy rung rung như thể cũng cười theo phụ họa . Cô ngước nhìn anh và hỏi :

- Đêm nay mày có dám vào cải thiện cùng ta không.

Chúng tôi nhao nhao vỗ tay :

- Hoan hô chị Ên ! Hoan hô chị Ên.

Bị tấn công bất ngờ anh Lê lúng túng, mặt ngồi hong bên bếp lửa đã đỏ lại càng đỏ thêm. Bỗng anh đứng dậy :

- Thôi, đi ngủ đi để mai còn hành quân.

 anh ấy mắc võng đi nằm thật, chúng tôi buộc phải làm theo. Mặt anh nào cũng buồn như vừa mất ví. 

Ngoài trời mưa như trút nước.


Trước lúc chui qua tấm thổ cẩm để vào ngủ Ên còn cầm lấy một đầu võng anh Lê lắc lắc :

- Nhớ đấy ! Ên chờ !

Không biết cô ấy nói đùa hay nói thật.

Ên vào buồng một lúc thấy bà mẹ ôm mảnh chiếu gai trải gần bếp lửa, chưa được bao lâu đã nghe bà ngáy như cưa gỗ. 


Đêm ấy chẳng anh nào ngủ được, không ngủ được bởi nhiều lý do nhưng có một lý do là để rình xem anh Lê có dám chui qua tấm thổ cẩm kia không ?

Trời còn mờ sương, anh Lê đã bị đánh thức dậy để nhận nhiệm vụ mới: Khẩn trương dẫn đại đội quay lại, tung anh em ra để nắm tình hình đối phương tại các huyện Hương Trà , Hương Thủy, Bắc Phú Lộc và TP Huế để làm cơ sở cho toàn Trung đoàn đánh chiếm giành đất cắm cờ trước khi hiệp định Pa ri ký kết.


Việc trở ra Bắc an dưỡng nay thành ảo mộng.

Khi hành trang đã gọn gàng, cậu Hiếu (nay là PGS-TS dạy tại trường ĐH Khoa học Huế) thành thực khai báo:

- Đêm qua lúc bên bếp lửa “ thằng vô giáo dục” của tao nó cứ oằn mình muốn chui ra khỏi nơi giam giữ.

Nó thành thực thế thì chúng tôi cũng chẳng cần chi phải giấu :

- Tao cũng thế ! Tao cũng thế !

Anh Lê nghe thế trừng mắt quát:

- Mấy thằng súc sinh, cô ta bằng mấy lần chị chúng mày rồi đấy.

Ừ thì mấy lần chị nhưng thấy thế trong lòng cũng rạo rực. Mấy thằng chúng tôi lần đầu tiên trong đời được chiêm ngưỡng báu vật của tạo hóa và biết đâu cũng là lần cuối. Và đúng thế thật, cậu Lính (Khoa văn) đã bị phục kích và chết trên đường đi nắm địch khi vừa qua Dốc Dinh, đến nay vẫn chưa tìm được mộ.


Chia tay chúng tôi, chị Ên buồn rầu bắt tay từng người. Anh Lê là người chị đến sau cùng.

- Không ! Chị ấy không bắt tay, chị ùa vào ôm lấy anh và khóc nức nở. Trước hành vi quá táo bạo và bất ngờ, toàn thân anh như cứng lại, 2 tay giang ra giật giật như 2 cánh con gà cắt tiết đến gian đoạn giãy chết, Ên như ôm chặt hơn chẳng muốn rời ra . Bà mẹ đi xuống cầu thang gỡ tay con gái và ôm con vào lòng, bà nói tiếng Kinh chưa thạo nhưng ai cũng nghe ra :

- Mày tệ lắm. Con tao muốn xin mày đứa con mà. Năm nay đã 29 mùa rẫy còn lấy ai được nữa ?.

Nghe xong anh ấy bỏ đi như chạy 

Cậu lính nói nhỏ vào tai tôi:

- Sao chiều hôm qua chị ấy bảo có chồng rồi?

- Nhiều tuổi rồi thì phải nói thế chứ sao.

Mấy đứa chúng tôi lại như những kẻ tu hành, chạy lại ôm 2 mẹ con: 

- Thôi chúng con chào mẹ , chúng em chào chị.

Bà dìu con lên gác, tiếng nức của chị vẫn chưa thôi.


Chứng kiến cảnh vừa rồi bất giác tôi nhớ lại câu chuyện ông Tiến làng tôi thường kể cho mọi người nghe mỗi khi dân làng tụ tập về sân kho hợp tác xã tuốt lúa,chia rơm. Tuy học chẳng được là bao nhưng ông có biệt tài mở miệng là thành vần thành điệu. Ví như hôm ban quản trị công bố phương án ăn chia một công chỉ được nửa cân lúa, ông ấy buộc miệng :

“ Xã viên mua bị

Quản trị mua bồ 

Thóc đổ vô mô

Đổ bồ quản trị” 

Hoặc thấy cô nào tiến thân bằng “tài sản cố định” là ông lại nghêu ngao lẩy Kiều:

“Cô kia như điếu Ủy ban 

Cán bộ cả làng ngó ngoáy châm châm”

Chuyện ông kể rằng : Có ông bí thư Đảng ủy xã nọ, vợ ông là Hội trưởng Hội Phụ nữ xã, hai ông bà chỉ sinh được một cậu con trai, cũng muốn sớm có cháu nối dõi tông đường nên đã sớm chọn vợ cho con. Có cô gái làng bên đẹp người, siêng năng, tháo vát và có phần giảo hoạt, hơn cậu 2 tuổi “nhất gái hơn hai” . Cưới dâu về ông bà ưng ý lắm.

Trong thời cuộc: “Tất cả cho tiền tuyến”. Tuy con một nhưng ông vẫn động viên con trai:

- “ Tổ quốc lâm nguy, thất phu hữu trách” con là con của bố mẹ, người đang nắm giữ các cương vị chủ chốt của xã, vẫn biết để con ở nhà bố mẹ yên tâm hơn nhưng cũng không thật sự rộng miệng ăn nói với xóm làng, tốt nhất con nên đi bộ đội cho bố một vài năm để cho con chân cứng đá mềm, sau này về còn cơ cấu làm Xã Đội trưởng hay Trưởng Công an, tương lai còn có thể thay thế bố.


Có anh con trai nào nỡ lòng từ chối khi nghe bố đặt vấn đề như vậy và cậu vui vẻ khoác ba lô lên đường. Ở nhà vợ cậu cũng nhanh chóng leo lên chức Bí thư Đoàn xã . Không biết mồ mả nhà ông sập hay sao mà cô con dâu dám nháy mắt đưa tình cả với bố chồng. Với kinh nghiệm của người làm công tác Đảng nhiều năm . Với sự từng trải của người đàn ông xấp xỉ tuổi 50. Ông biết đèn xanh đã bật.

Rồi chuyện gì đến sẽ đến, bụng cô con dâu cứ lớn dần ra. Được một năm thì cậu con trai về phép, nó biết ngay cái thai trong bụng vợ không phải là con mình. Trâu có chửa cũng chỉ cộng trừ 330 ngày là đẻ. Cậu ta dọa nếu không khai sẽ giết chết cả 2 mẹ con, không còn cách nào khác cô đành thú tội. 


Cái khó là sinh con ra xưng hô như thế nào cho phải đạo, thực chất cái thai trong bụng vợ là em ruột cậu, khi vợ cậu đẻ ra lại là con cậu, vợ cậu thực chất là vợ bố mình. Xưng hô như thế nào đây ? Khó quá.

Bà Hội trưởng Phụ nữ xã từng hòa giải cho nhiều cặp vợ chồng, nhưng khi gặp trường hợp nhà mình thật nan giải. Nhưng rồi bà cũng tìm ra cách giải quyêt xem ra có lý có tình, bà cắn răng nói với chồng:

- Đã đến nước này thì ông phải ra quyết định thành lập chi bộ lâm thời, nhà mình cả 4 người đều là đảng viên, thừa điều kiện để thành lập chi bộ rồi đấy.

Bước vào cuộc họp bà là người vô can nên được cử làm chủ tọa, bà nói :

- Khi biết chuyện này mẹ cũng đau lòng lắm nhưng để giữ thanh danh cho Đảng con cũng nên chín bỏ làm mười, nếu con cứ khăng khăng làm rõ mọi chuyện thì cái chức Bí thư của bố không còn, còn mẹ thì chẳng biết chui đầu vào đâu, vợ con lại thành vợ của bố, con lại hai bàn tay trắng.

Mẹ đã nói đến thế mà cậu vẫn không đồng ý, cuối cùng phải dùng biện pháp bỏ phiếu kín. Kết quả:

1 phiếu trắng

3 phiếu nhất trí để con dâu sinh con và khi lớn lên cho phép nó gọi cả nhà bằng “ Đồng chí “

Mặc dầu uất đến nghẹn cổ nhưng cậu vẫn phải chấp hành bởi theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. 


Nghe xong câu chuyện cậu Hiếu nhận xét: Dân mình hay thật. Ở hậu phương ông Bí thư Đảng ủy dám vượt qua luân thường đạo lý, bất chất mọi điều lệ khắt khe của Đảng để thỏa mãn dục vọng cá nhân, còn ở chiến trường người lính đã vượt qua bao bom đạn lại không dám vượt qua tấm thổ cẩm kia để đáp ứng một nguyện vọng đời thường nhỏ nhoi của một người con gái.

Chuyện ông Tiến chỉ có vậy, nhưng khi kể lại tôi cũng thêm chút gia vị màu mè cho thêm phần hấp dẫn. Mọi người mải mê nghe, mê mải bước. Dòng sông A Sáp đã hiện ra trước mặt,  con sông bắt nguồn từ miền tây tỉnh Thừa Thiên Huế nhưng lại đổ về đất Lào. Thác không dài nhưng khi lũ về sẽ có nhiều thác dốc và nguy hiểm, mới hôm qua thơ mộng là vậy chỉ một đêm mưa ròng nó trở nên như con quái vật. Nhiệm vụ đang chờ phía trước, không thể chậm trễ , Ban chỉ huy Đại đội tìm một khúc sông nước chảy tương đối chậm, anh Lê ra lệnh:
- Vượt sông ! 

Mọi người nhanh chóng mở bồng lấy phao bơi để vượt sông, gọi là phao chứ thực ra chúng tôi tận dụng chiếc túi ni lông bọc ngoài bao gạo Trung Quốc để dùng. Thật mau lẹ, chẳng mấy chốc toàn bộ chiếc bồng và khẩu AK báng gập đã tháo băng nằm gọn trong chiếc túi, miệng bao được buộc chặt bằng dây cao su, đã có dăm ba người đẩy ra dòng nước, mọi người nhìn nhau cười khích lệ. Ra đến giữa dòng thì chiếc phao của tôi nặng chịch, biết là phao đã bị thủng nước vào, nếu bỏ phao mà thoát thân thì quá dễ dàng, bởi hồi còn học cấp 3 Nam Đàn 1 tôi từng đi lao động đắp đê 42. Sông Lam rộng thế mà tôi từng bơi hai lượt đi về. Nhưng trong ấy còn khẩu AK, mà lại là AK bắng gập, chỉ dành riêng cho lính trinh sát, người sống mà súng mất thì chẳng khác chi tội chết, bờ bên kia nhiều người đã qua sông. Tôi đành kêu cứu ! Mấy người nhanh chóng tháo dây võng nối dài, anh Thái (Đặng Văn Thái quê Tứ Xuyên, Tứ Kỳ, Hải Dương) buộc một đầu dây vào bụng lao ra dòng nước, khi anh nắm được tay tôi thì miệng thác chỉ cách vài chục mét. Khi đã hoàn hồn, tôi quay thều thào :
- Nếu các anh không nhanh thì em đã chết trôi. Anh Thái đùa :
- Nếu để cậu chết thì còn ai kể chuyện Tam Quốc và Thủy Hử cho mọi người nghe.
Lần thứ 3 tôi thoát chết.

Hành quân về đến Nam Đông - Khe Tre, địa điểm tập kết của Trung đoàn trước lúc vào chiến dịch. Ban chỉ huy Đại đội Trinh sát chọn tôi làm liên lạc thay cho cậu Lương người Hà Tĩnh. Từ đây công việc lại thêm nặng nề bởi ngoài nhiệm vụ của một trinh sát viên còn phải làm thêm bao công việc khác, kể cả việc cơm bưng nước rót, nhưng có một việc mà tôi thật không ngờ : Cùng Chính trị viên Đại đội kiểm duyệt thư từ Bắc gửi vào bằng cách : Thư nhận từ Trung đoàn bộ về, đem rải ra trên mặt đất dưới chỗ ông ấy nằm, chờ ngấm hơi nước rồi cẩn thận bóc ra, những thư nào có nội dung ủy mị, ông ấy sẽ giữ lại. Năm 2013 khi vào TP Hà Tĩnh thăm cậu Lương (Thương binh hạng 1) sau bao nhiêu năm mất trí nay dần tỉnh lại, cậu ấy thành thật bảo : Thư con H. người yêu mày khi nào tao cũng đọc trước.
Chả trách gì mà có anh cả năm chẳng nhận được bức thư nhà nào.



Ảnh minh họa
Chiến dịch đánh chiếm giành đất cắm cờ trước lúc hiệp định Pari ký kết diễn ra thật khẩn trương. Chiến dịch này do Sư đoàn 324 là đơn vị chủ công, Trung đoàn tôi có nhiệm vụ phối thuôc bởi Trung đoàn 6 hao tổn lớn trong chiến dịch đánh Phú Lộc chưa có lực lưng bổ sung. Đại đội trinh sát lúc này chỉ còn 26 người chia thành 7 tổ tung ra nắm địch trên các hướng. Tôi cùng Hương -Thạch Hà, Tân (Cẩm Xuyên), cả 3 đều sinh năm 1952 được giao nhiệm vụ đo đạc tính toán lượng bộc phá cần dùng để công binh phá sập cầu La Sơn. Hương và Tân nguyên là lính pháo binh đang nhàm chán với công việc suốt ngày lau vũ khí, thỉnh thoảng tham gia chiến dịch bắn dăm bảy quả đạn nổ tận đâu đâu nên trốn đơn vị chạy ra tuyến trước đầu quân cho E6, sau khi ban bảo vệ Trung đoàn xác minh biết Trung đoàn pháo binh có 2 lính “Đào ngũ”, Trung Đoàn trưởng lệnh cho hai thằng lì lợm ấy tăng cường cho trinh sát.
Cậu Tân sòng phẳng lắm :
- Tao, Tổ trưởng đi đầu ! Hương 71 đi giữa ! Hanh 72 đi sau cùng. Đi thưa ra.
Men theo mé đường 14, vừa lên đến đầu Cầu Gỗ thì một tia chớp lóe lên, cậu Tân bị vấp mìn, tôi nhanh chóng nằm xuống. Khi biết mình không bị sao tôi vụt đứng dậy chạy lên tìm Tân, tôi lặng người nhìn Tân bê bết máu và đã tắt thở. Cậu Hương kêu lên: 
- Tao bị vào đùi.

Theo nguyên tắc “Đưa thương binh ra trước, lấy tử sĩ ra sau”, tôi dìu Hương ngược đường 14 chạy về hướng rừng xanh, khi đã an toàn tôi đặt Hương vào bụi rậm, lấy ống nhòm rẽ lá nhìn về hướng Cầu Gỗ, chiếc xe jeep chạy tới đỗ đầu cầu bên kia, 3 tên lính VNCH nhảy xuống, chẳng khó khăn gì chúng phát hiện ra nơi Tân nằm, qua ống nhòm mọi việc diễn ra như ngay trước mắt mình, ngỡ như đưa tay ra là nắm bắt được. Một thằng trên xe bước xuống lấy dây buộc vào cổ chân Tân, đầu kia hắn buộc vào đuôi chiếc xe rồi lao đi, khi xác Tân đã nằm giữa đường hắn giơ tay ra hiệu cho xe dừng lại, chân đi dày đạp lên trán, rồi giơ cao báng khẩu súng AR-15 nện mạnh xuống hàm răng cậu ấy, một vật gì tung ra, hai thằng trên xe nhảy xuống tranh nhau. Tôi chợt hiểu ra : Thôi chết ! Cậu ấy có chiếc răng bằng vàng. 
Lòng tôi quặn thắt ngỡ như chiếc báng súng kia đang đập nát tim mình. 
Chúng tiếp tục kéo lê thi thể Tân trên đường chạy về hướng La Sơn, rất may là chúng chạy chậm cố tình để dân đi đường còn xem, nếu chạy nhanh đầu cậu ấy đã nát thành cám mất. Mấy ngày sau được cơ sở báo lên: Xác anh giải phóng đã đưa về đặt tại ngã ba Quốc lộ 1 và đường vào sân bay Phú Bài, suốt ngày có lính canh, trên thi thể là tấm biển đề dòng chữ: "SỐ PHẬN NHỮNG KẺ LÀM TAY SAI CHO BẮC VIỆT" nhằm răn đe những ai có ý định chạy lên rừng theo Cộng sản. Một tuần sau do xác phân hủy bốc mùi hôi nên chúng cho dân đưa đi chôn cất. Năm 1979 Tân được qui tập về Nghĩa trang huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.

Năm 2011, nhận được điện của Hương báo cho biết gia đình đã tìm được mộ đưa về xây lăng tại nghĩa trang gia tộc. Chẳng mấy khó khăn để hai chúng tôi tìm ra nhà cậu ấy. Cả làng ai cũng vui khi biết 40 năm xa cách nay gia đình được đoàn tụ. Nếu không được chỉ dẫn chúng tôi sẽ nhầm là rạp nhà ai dựng lên làm đám cưới, 3 gian rạp tinh tơm, gian trên cùng đặt chiếc tiểu sành phủ cờ Tổ quốc, bốn cựu mặc lễ phục bồng súng đứng bốn góc trông uy nghiêm chẳng khác gì lính cảnh vệ. Cảm giác đầu tiên khiến tôi thêm xúc động: Cán bộ địa phương thật chu đáo !

Thấy chúng tôi đến, bố cậu Tân vui như con sống lại trở về. Ông bắt tay hết người này đến người kia, gặp ai ông cũng cười mừng rỡ. Đã 82 tuổi mà tiếng ông vẫn thật giòn. Cũng vừa tới bữa cơm trưa, cứ 6 người một một bàn ông bắt phải ngồi, không ngồi ông không cho về. Bữa cơm không thịnh soạn như mân cưới nhưng cũng có thịt gà, thịt lợn, canh rau. Ông cầm chai rượu đi hết mâm này mâm khác chúc tụng. Nhìn ông nước mắt tôi lại trào ra, ông phát hiện được :
- Đừng khóc con, không việc chi mà phải khóc.
Nghe vậy tôi lại khóc to hơn. Ông ôm tôi giới thiệu với mọi người:
- Hắn cùng đơn vị với thằng Tân, yếu đuối ri mần răng mà sống về đây được ?
Tôi không còn làm chủ được mình và khóc nức nở, nhiều người chứng kiến cũng xúc động khóc theo, rồi cả ông cũng khóc ...
Khi đã bình tĩnh lại, tiễn tôi và Hương ra về, tôi hỏi ông :
- Từ trong ấy về tới đây xe chạy có hết một ngày không Bố ?( Lúc này tôi đã gọi ông bằng Bố) 
- Sao lại một ngày. Từ Long An về đây sao lại một ngày. Trung tâm họ nhiệt tình lắm con ơi ! Mọi việc từ hương hoa, xe cộ họ lo liệu cả, khi cất bốc mấy chú nó cố tìm cho được chiếc răng vàng, nhưng làm như thế anh em họ lại nghĩ mấy chục năm đi tìm con là để lấy lại chiếc răng vàng à. Bác cho qua. Bốc xong xe chạy hai ngày hai đêm thì về tới nơi.
Tôi cố nín thở hỏi lại :
- Trung tâm nào hả bố :
- Trung tâm ngoài quê Bác con nờ. 
Tôi nháy mắt với Hương có ý bảo : Đừng hỏi, đừng nói gì thêm nữa.
Ngày 20/10/2016 vừa rồi nhân chuyến vào Nam Đông - Khe Tre lấy mẫu phẩm để xác định ADN cho một đ
ồng đội, tôi đã ghé vào Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Hương thủy thắp hương cho cậu ấy và đồng đội: 
- Tân ơi ! Từ nay cậu đừng về nhà nữa, hãy ở đây cùng anh em đồng đội, nếu cậu về bố không nhận ra nữa đâu, bởi chiếc răng vàng bố làm cho trước lúc nhập ngũ bọn lính bên kia đã mang vào nhà thổ, vả lại bố đã nghe bọn bất nhân đưa nắm đất từ Long an về thay thế cậu rồi...
Chú Ng. Người cùng đi hỏi tôi :
- Sao chuyến đi này anh khóc nhiều thế ? 
- Nếu không có Anh ấy, mình đâu có ngày hôm nay. 

Bước vào chiến dịch, Trung đoàn tung ra 7 tổ trinh sát thì có 3 tổ gặp sự cố, tổ của Tân thì cậu ấy bị chết thảm thương, tổ Quỳnh thì cả 3 bị phục kích hy sinh không lấy được xác, trong đó có cậu Kính chết khi tôi chưa kịp hỏi cậu ấy đã hành xử với 4 tù binh như thế nào. Tổ của Thiết ( khoa sinh) Lính ( khoa văn) Tương (Yên thành) bị vấp mìn khi vừa vượt qua Dốc Dinh. Thiết kéo được hai đồng đội ra chôn bên đường mòn và lần mò về hậu cứ trong đêm. 
- Cậu cố nhớ xem chôn 2 người ấy ở chỗ nào, đường đến Dốc Dinh mình vẫn có thể dẫn cậu tới đó được ? Tôi hỏi Thiết.
- Cậu ấy buồn rầu đáp:
- Lúc chôn xong trời đã tối, tao lần mò suốt đêm mới về đươc làm sao mà nhớ nổi.

Một lần nữa ý đồ chiến dịch lại không thể thực hiện được, mặc dù có sự phối hợp của Sư đoàn Chủ lực 324. Ban đầu cả 2 đơn vị cùng đánh chiếm được cao điểm 303, một căn cứ có thể khống chế được đèo La Hi từ phía nam. Đánh ra tận Đồi Bông, Đồi Nghệ.
Sau khi sư đoàn 324 rút quân, giao lại cho trung đoàn 6 chốt giữ. Những điểm cao quân ta đóng chốt lại trở thành những cối xay thịt. Không giờ nào ngớt tiếng pháo từ các trận địa : La Sơn, Giàn Bò, Mũi Né, Hòn Vượn cùng pháo hạm từ biển tập trung bắn vào theo sào theo mẫu. Thậm chí đến bây giờ cậu Tân (khoa toán) vẫn in đậm hình ảnh Chính trị viên Tiểu đoàn Bách cùng Duyên (khoa toán) bị pháo 175 hất tung lên trời. 
Không chịu được sự phản kích quá dữ dội của hỏa lực đối phương, ban chỉ huy Trung đoàn cho các đơn vị bộ binh rút về theo hiện trạng ban đầu.


Tôi cùng Hải (Diễn Châu) và Mạnh là y tá đại đội, ở hậu cứ chẳng cần chăm sóc ai nên cũng được phân đi theo chúng tôi cho đủ tổ 3 người để tăng cường cho K1. Khi dẫn tàn quân rút chạy vượt qua đèo La Hi đi qua Vũng Tròn gặp thác nước đẹp như mơ. Có lẽ trời thương mấy thằng thất trận, sau 2 tuần không tắm, được ngụp lặn trong cái vũng nước trong xanh ấy thì còn gì hơn.
Một cậu lính đứng dưới dòng thác xối, bỗng hét toáng lên:
- Chúng mày ơi. Lại đây. Sướng lắm. Nước dội vào sướng lắm.
Trời đất. “Vật dư thừa”của nó như đầu con rắn hổ mang, bạnh cằm ra như chực đớp mồi. 1,2,3... rồi tất cả trần như nhộng chen nhau đứng mặc cho thác xối, khua chân múa tay, miệng la hét như những thằng điên.
Bỗng cậu Khoa la lên :
- Thi ! Thi xem thằng nào lớn nhất thì ngày mai được miễn đi gùi đạn.
Cậu Mạnh đốp lại: 
- Cậu ngu bỏ mẹ. Thằng vừa to vừa dài là thằng to khỏe để nó ở nhà thì phí quá... 
Sau một hồi tranh cãi, các “ thí sinh” đồng thời là “giám khảo” thống nhất lấy 2 giải: Đẹp nhất và nhỏ nhất.



Thác Mơ ngày ấy, bây giờ.
Cuộc thi nào rồi cũng đến hồi kết, Mạnh là người đoạt giải hai kích thứớc khiêm tốn nhất.
Trên đường về hậu cứ, mấy cậu cứ trầm trồ:
- Sướng thật. Nếu sau này sống trở về lấy vợ có được như thế không nhỉ ?
Trên thế gian này có cuộc thi nào như thế nữa không.

Nơi chúng tôi tắm năm xưa nay đã thành khu du lịch sinh thái Thác Mơ. Cái tên mà lính chúng tôi đặt cho dòng thác ấy vào đầu năm 1973 trở thành tên riêng một địa danh. Từ ngã ba La Sơn theo đường 14 đi lên chưa đầy 40km.
Trong số những người “dự cuộc thi” lần ấy, đến tháng 10 năm 1974, sau chiến dịch đánh chiếm dãy núi Mỏ Tàu, chẳng mấy ai có cơ may về cưới vợ để so sánh cái gì sướng hơn. Cậu Mạnh vẫn còn, năm 1982 phục viên về lấy vợ. Tuy số đo khiêm tốn, nhưng 6 năm vẫn cho ra lò 4 nàng công chúa. Năm 2006 biết tin cậu ấy về chẳng có chế độ gì, mấy anh em CCB trinh sát chúng tôi ra thăm xem có giúp gì được. Không bị thương nên không thể làm chế độ thương binh. Khi Nhà nước có chủ trương làm chế độ chất độc màu da cam cho những CCB tham chiến nằm trong vĩ tuyến 17. Được đồng đội đương chức giúp nên cũng được hưởng chế độ chất độc da cam. Cậu ấy mừng lắm,và quy ra ngay bằng thóc: 
- Chúng mày cho tao tháng hai tạ lúa rồi còn gì. Cả nhà ăn không hết.
Cách đây vài năm Chủ tịch xã quê cậu nguyên là trò cũ của vợ chồng tôi mua chiếc xe mới, mời thầy cô ra khao, tôi lại đến thăm Mạnh, lần này cậu ấy không vui như trước : 
- Hai đứa con tao có lẽ không lấy được chồng.
- Sao thế ?
- Cũng có vài nơi dạm hỏi, nhưng bị dèm pha bởi tao bị nhiễm chất độc da cam.
Tôi không biết nói gì, nhưng cũng lãnh phần trách nhiệm: 
- Bọn mình giúp cậu, hóa ra lại hại con cậu rồi.
- Không! Chúng mày không có lỗi, lỗi là do tao, tao tham, cứ nghĩ 10 năm tham gia quân đội, 3 năm ở chiến trường về chẳng có chế độ gì. Được hưởng thêm tháng vài tạ lúa cũng bớt khó khăn. Vả lại cũng đỡ tủi than. Ai ngờ. 
Nhưng rồi cậu ấy lại động viên tôi: 
- Thôi ! Mày đừng buồn, tao đã có cách.
- Cách gì?
- Sắp tới cho cả 2 đứa vào Đắc Lắc cuốc cỏ cà phê làm thuê, rồi cũng như 2 con chị chúng sẽ có chồng và ở luôn trong ấy, cho vợ vào nuôi cháu, tao ở nhà sống chết với cái chế độ chất độc da cam này.
Nghe Mạnh nói thế, lòng tôi lại càng buồn thêm. Không biết cậu ấy còn sống được bao lâu nữa, cùng sinh năm 1952 như tôi mà trông Mạnh như lão tám mươi, khi cười cả hai hàm răng hầu hết đi trước tuổi, tiếng nói phều phào nhão choẹt, tóc lưa thưa lại bạc gần hết, trông thật thảm hại.
Khoảnh khắc được tận hưởng cái cảm giác khác lạ ngây ngất lần đầu tiên trong đời do dòng thác mang lại rồi cũng nhanh chóng qua đi. Ai nấy lại trở về với công việc thực tại, người ở tuyến sau lại tiếp tục gùi lương tải đạn, mở đường. Tuyến trước thì tập kết lương thực thuốc men.Trên chốt thì củng cố hầm hào công sự. Ở hậu cứ thì tranh thủ đào huyệt dự phòng. Trước mắt là để làm hố cá nhân, khi bị pháo kích thì nhảy xuống cho an toàn, sau nữa khi bạn chết đưa về có sẵn chỗ mà chôn. Mặc dù đã chết nhưng cũng chẳng muốn để bạn nằm xa, chôn gần hầm trú ẩn của mình vẫn ấm tình đồng đội, cảm thấy đỡ lạnh lưng hở sườn. Mặt khác không may bị bom pháo đào lên còn biết mà lấp lại.
Trinh sát còn anh nào lại tung ra nắm tình hình đối phương. Khi được giao nhiệm vụ đi nghiên cứu căn cứ Nguyễn Trãi, anh Phượng ( Quảng Ninh ) nói ra tâm trạng của hầu hết chúng tôi: 
- Sắp kí Hiệp định Pari còn đi nắm địch làm cái chó gì nữa ?


Đúng thế. Trong tâm trí chúng tôi chẳng ai nghĩ đến đánh nhau, chỉ thấp thỏm chờ giây phút thiêng liêng ấy. Sự hồi hộp, căng thẳng còn hơn việc đứng ngồi chờ tin vợ đẻ.
Rồi giây phút ấy cũng đến,21h ngày 27/ 1/1973 Hiệp định Pari đã được kí kết.
Hay tin cả lính ta và lính bên kia thi nhau nhả đạn, có điều nòng súng được quay lên trời. Tiếng hò reo của lính chốt trên các đỉnh đồi nối dài vang vọng vào núi rừng xanh thẳm, hòa cùng tiếng súng nổ ran như dân mình đốt pháo đón giao thừa vậy. Thậm chí có cậu giữ B41 đứng lên nóc hầm hướng nòng lên trời mà bóp cò, hết tầm đạn nổ chẳng khác gì pháo hoa. Chúng tôi ôm nhau cười to mà nước mắt ai cũng trào ra. Lúc ấy mới kịp hỏi nhau: 
- Ở ngoài Bắc anh ở tỉnh nào, huyện nào, xã nào. Bố mẹ còn khỏe không ? Có em gái không ?
Tóm lại là chuyện chỉ xoay quanh việc được trở về đất Bắc. Anh Thái Đại đội phó còn hỏi tôi :
- Mày về có cưới con H không?
Trời đất ! Lúc ấy vợ tôi vừa học xong kỳ 1 lớp 10/10.
Có anh còn phang cả khẩu AK vào gốc cây rồi tung lên trời: 
- Cho mày về chầu diêm vương.
Trong đầu của những tâm hồn trong sáng vô tư và hồn nhiên ấy, với tuổi đời còn rất trẻ chỉ nghĩ rằng: Chiến tranh đã kết thúc.
Làm sao biết được việc ký hiệp định Pari chỉ là một nước đi trong ván cờ đôi bên bất phân thắng bại. Họ đâu thực tâm coi đó là khoảnh khắc lịch sử của cả một dân tộc.
Tính mạng của những thanh niên vô tội ở cả hai phía lại sắp được ném vào cuộc chiến tới còn tàn khốc gấp bội...


Dường như cấp trên đã dự đoán được diễn biến tư tưởng của người lính, mà cũng chẳng riêng gì lính, nhiều cán bộ sỹ quan cũng xà vào các nhóm đánh bài tiến lên và cũng chẳng thấy các trung đội tổ chức cho anh em đào huyệt dự phòng như thời gian trước.
Cuộc họp Quân chính toàn Trung đoàn được tổ chức. Chủ đề của đợt sinh hoạt chính trị này là: “Chống ảo tưởng hòa bình, nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động lấn chiếm của kẻ địch”
Tinh thần ấy được quán triệt tới từng chiến sỹ, những điểm chốt quan trọng cán bộ chính trị ra tận nơi để phổ biến tinh thần ấy.

Ảnh minh họa
 Tuy nhiên một số công việc chuẩn bị cho hòa hợp, hòa giải dân tộc vẫn được tiến hành. Nhiệm vụ này chỉ triển khai đến cấp tiểu đoàn. Mỗi tiểu đoàn chọn ra những người “nhìn được”. Tất cả những người chọn ra được cắt tóc cạo râu, được phát thêm bộ quần áo Tô châu, đôi dép cao su mới. Trung đội này được cắm tổ trinh sát do anh Thái là Đại đội phó làm tổ trưởng cùng tôi và Hiếu - Khoa lý (nay là PGS-TS) có nhiệm vụ theo dõi mọi diễn biến đối phương, kể cả cách bố trí trận địa của họ trên Động Giếng. Đại đội trưởng Tăng Văn Phả trực tiếp đóng vai Trung đội trưởng và có nhiệm vụ liên hệ phối hợp với lực lưỡng VNCH làm một căn nhà bằng cây lá rừng nằm bên dòng suối Nhật Lệ là ranh giới phân chia 2 chiến tuyến. Là nơi để gặp gỡ giao lưu và trao gửi cho nhau những yêu cầu mà mỗi bên quan tâm. Công việc được lính của hai bên tham gia, nếu chỉ mặc quần cộc áo lót thì chẳng khác chi anh em một nhà tập trung về giúp mẹ dựng căn nhà tạm sau cơn lũ quét. Chẳng ai biết được đó là những người mấy ngày trước có mày mà không có tao và cũng không ai biết được sau đó họ sẽ đối xử với nhau như thế nào.

Để dựng được một căn nhà theo yêu cầu, một mình lính ta làm có khi 4,5 ngày chưa xong, có lính bên kia tham gia công việc tiến hành thật mau lẹ, bởi họ có đầy đủ công cụ. Chiếc cưa máy cầm tay mà lần đầu tiên trong đời chúng tôi được nhìn thấy, chiếc thước dây cũng vậy, nó chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay khi kéo ra dài 5m. Họ làm như xiếc trước mắt những anh chàng “nhà quê ra tỉnh” như chúng tôi.

Lúc nghỉ giải lao mùi thuốc lá “ Quân tiếp vụ” thơm đến thèm chảy nước bọt, anh nào cũng mong được họ mời và họ mời thật, tôi hút thuốc chưa nhiều, vừa nhấp môi rít một hơi dài chưa kịp nhả khói đã thấy cây rừng nghiêng ngả khi tỉnh lại thấy lính hai bên  đang nhìn tôi cười nghiêng ngả. Lần đầu tiên tôi làm xấu mặt lính “Việt cộng”, anh Phả định trả tôi về Trung đoàn nhưng anh Thái nói:  Không được. Nó là liên lạc của tôi.
Lính ta đón nhận điếu thuốc từ tay những người lính bên kia với thái độ biết ơn, còn Trung đội trưởng Phả giơ tay từ chối và lấy gói Điện biên bao bạc rút ra một điếu rồi từ tốn châm lửa hút. Lính bên kia thấy thuốc lạ, có vài anh cũng xin được hút thử rồi đánh giá : Không đầu lọc. Thơm, nhưng nhẹ quá !
Chỉ từ những điếu thuốc chia nhau mà khoảng cách địch ta giữa chúng tôi dần được xóa nhòa. Dẫu sao thì cũng cùng một mẹ Việt Nam máu đỏ da vàng.

Ngày hôm sau những anh nào được cử đi làm, ai hút thuốc đều được phát một bao Điện biên và được quán triệt không được hút thuốc của bên kia nữa.
Sau vài ngày biết được đơn vị đang đối diện với ta là lính trung đoàn 54, đơn vị được truy tặng  “Bắc đẩu bội tinh”, giống như đơn vị Anh hùng của ta vậy.  Một trung đoàn nổi tiếng là gan lì và khát máu thế mà khi gần họ thấy anh nào cũng hiền khô như lính mình, thậm chí còn thơm thảo nữa . Anh nào về thăm nhà lên cũng có quà biếu chúng tôi, khi vài cân nếp, khi con vịt, có anh còn mua cả chục chiếc khăn voan, ví nháy nháy biếu tặng. Tất nhiên những thứ ấy chẳng ai được phép dung bởi cấp trên cho đó là hàng “tâm lý chiến” nên thu hồi lại. Chúng tôi chẳng có gì biếu họ chỉ nói suông rằng : Khi nào 2 miền Nam Bắc thông thương mời các bạn ra thăm Hồ Gươm. Anh lính nào cũng ngỡ như ngày mai ngày kia được ra thật.

Khoảng 3 tuần sau, khi anh Phả dẫn ra nhà hòa hợp đã thấy viên sỹ quan chỉ huy bên kia ngồi chờ tự lúc nào, anh ấy đi một mình, không ai tháp tùng, chắc muốn thổ lộ điều gì bí mật chăng !? Anh ta đứng dậy miễn cưỡng bắt tay rồi với giọng buồn rầu:
- Tôi có một đề nghị không biết các ông có chấp nhận không ?
- Việc gì ông cứ nói  – Anh Phả đáp lời .
- Cấp trên chúng tôi ra lệnh đánh chiếm điểm cao các ông đang chốt giữ. Tôi là người chỉ huy không thể không chấp hành , nhưng nếu đánh thật thì đôi bên lại gây chết chóc cho nhau, tôi đề nghị các ông cùng chúng tôi đánh trận giả.
Nói rồi viên sỹ quan vạch ra một kế hoạch thật tỉ mỉ. Cuối cùng anh ta đề nghị:
- Yêu cầu các ông phải sử dụng B40, B41 có như thế mới đánh lừa được cấp trên chúng tôi.
Anh Phả hội ý nhanh với tổ trinh sát rồi thống nhất đồng ý. Trận đánh diễn ra đúng như phương án của viên chỉ huy vạch ra. Sau trận đánh quân ta cười nói như khi thu quân sau một buổi diễn tập hiệp đồng tác chiến.

Ngay ngày hôm sau toàn mặt trận nhận được tin: ”Quân lực VNCH đã ngang nhiên phá vỡ hiệp định Pa ri”, Và, tinh thần “ đập tan mọi âm mưu và hành động lấn chiếm của địch” đã biến thành hiện thực một cách nhanh chóng. Trung đội do Tăng Văn Phả sắm vai được giải tán, anh Phả trở về với đúng cương vị của mình là Đại đội trưởng đại đội chủ công có nhiệm vụ đánh tiêu diệt lực lượng đối phương đóng trên Động Giếng, tổ trinh sát Trung đoàn tiếp tục làm nhiệm vụ. Phía bên kia vẫn chẳng hay biết gì.
Khi đi nắm lại tình hình đối phương lần cuối, vào đến gần hàng rào nghe viên sỹ quan chỉ huy nói với một người nào đó:
- Mấy thứ này mai mốt mang sang biếu mấy anh giải phóng.
Ba chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ rút lui.
Tôi đem chuyện này nói với anh Phả, anh ấy chạy lại nói nhỏ vào tai tôi:
- Nếu mày lộ ra chuyện này làm nản lòng lính tao, tao đánh không thắng sẽ báo trung đoàn cho mày ra tòa án binh !
17h30 phút ngày hôm sau trận đánh diễn ra đúng kế hoạch và nhanh chóng giành thắng lợi. Khi theo chân anh Thái lên thu bản đồ và tài liệu của đối phương, đếm được 8 thi thể đã cháy đen, có người miệng há hốc đầy máu quyện lẫn thức ăn chưa kịp nuốt. Đó là thời điểm lính bên kia đang ăn bữa cơm chiều. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt 43 năm qua. Chắc chắn trong số đó có người đã cười nghiêng ngả khi thấy tôi say thuốc lá. Hỡi những người lính chiến tuyến bên kia ơi ! Tôi đã không thể làm gì để báo tin cho các bạn, nếu cố tình báo cho các bạn thì tôi đã bị xử tử ngay tại trận chứ không để đến ngày ra tòa án binh ! Dẫu sao các bạn cũng được an ủi phần nào, ngày hôm sau trực thăng đã đưa các bạn về về đồng bằng, chắc chắn bây giờ đã mồ yên mả đẹp tại nghĩa trang gia tộc, còn đồng đội tôi biết mấy ngàn người trong những cánh rừngTây nam thành phố Huế xương vẫn còn phơi.
Còn anh Phả, với nhiều chiến công đánh thắng giòn giã đã đưa anh có những bước thăng tiến dài.
Thiếu tướng Tăng Văn Phả, do yêu cầu nhiệm vụ được chuyển ra ngoài làm Bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Nam, nhậm chức chưa được bao lâu thì bị bệnh hiểm nghèo và qua đời năm 2003 khi tuổi đời còn có thể cống hiến được nhiều cho đất nước.
Đốt nén hương thơm xin cúi đầu vái lạy Anh !
Lính Trung đoàn tôi có nhiều kiểu chết, không riêng gì lính mà cán bộ cũng chết nhiều, thậm chí Trung đoàn trưởng chết một cách tức tưởi như trường hợp thiếu tá Khởi. Tốt nghiệp Học viện trung cao vào nhậm chức Trung đoàn trưởng thay anh Trần Lưu Chử chưa được bao lâu, trên đường lên Quân khu dự họp, vừa qua dốc H15 gặp bão bị cây rừng gãy đập vào đầu chết không kịp nói lời trăng trối. Rồi Trung đoàn phó Đuổi đang ở hậu cứ bị bom Na pan thiêu cháy đen, tiếp đến Chính trị viên Tiểu đoàn Bách bị pháo 175 hất tung lên trời, Trưởng Ban tác chiến Tráng (Quảng trị) sau khi Huế đã giải phóng dẫn quân lên rừng thu dọn chiến trường bị bị lũ cuốn trôi...
Còn đây là một trường hợp chết thật hi hữu. Ngày 15/3/1973, tổ trinh sát do Phạm Minh Tâm(Cẩm xuyên) làm tổ trưởng cùng Trần Đình Thiết (Quảng Bình), Nguyễn văn Hương (Hà tĩnh) và Lục Cá Dẫu (Quảng Ninh) có nhiệm vụ vượt qua tuyến phòng thủ đối phương đánh quấy phá đồng bằng, thực hiên kế “Dương đông kích Tây” tạo điều kiện cho chủ lực ta đánh chiếm căn cứ Nguyễn Trãi nằm trên dãy Ba-Lô. Đội hình hành tiến do Lục Cá Dẫu đi đầu, khi cách đỉnh yên ngựa ba bốn chục mét, nghe tiếng lính bên kia nói chuyện rì rầm, Dẫu ra hiệu cho phía sau dừng lại rồi một mình bò lên nắm tình hình, chẳng may đụng vào một tổ ong, rúc đầu vào bụi giang nằm im, mặc cho ong đốt, không một tiếng kêu la. Không thấy Dẫu quay lại, Tâm cùng Hương bò lên quan sát, thấy Dẫu đang cắm đầu vào bụi giang bất động, khẩu AK vẫn khoác chéo ngực, đàn ong bu bám đấy mình. Chờ cho đàn ong về tổ, Hương bò lên lấy dây võng buộc vào cổ chân rồi cùng Tâm kéo nhưng không thể được. Tâm quyết định để Dẫu nằm lại và tìm hướng khác thực thi nhiệm vụ. Sau 2 ngày đánh hết cơ số đạn, trở lại nơi Dẫu hy sinh, anh vẫn nằm đó với tư thế cũ, lại vẫn phương pháp cũ, bụi giang rung động, một tiếng nổ phát ra từ nơi Dẫu nằm, tiếp theo là tiếng nổ của nhiều quả lựu đạn từ trên yên ngựa ném xuống. Biết địch đã phát hiện và dùng xác Dẫu để tiêu diệt quân ta .Biết không thể lấy Dẫu ra trong lúc này. Bốn ngày sau Trung đoàn tổ chức để lấy thi thể anh, khi Hương bò lên quan sát, nơi anh nằm cây rừng đã cháy, xác anh đã được lính bên kia chôn ngay dưới gốc cây găng, cách cây cổ thụ khoảng mươi mét. Mọi người lặng lẽ ra về. Thời gian trôi đi, Miền Nam giải phóng, mỗi người một nơi, ai cũng bộn bề với việc mưu sinh. Một mình Lục Cả Dẫu lặng yên trên đỉnh đèo heo hút ấy đã hơn 40 năm ròng.
Gia đình Lục Cá Dẫu tìm đến trung tâm ngoại cảm này, nhà ngoại cảm nọ, mỗi người nói một nẻo , chẳng biết tin ai. Cháu Lục Thanh Xuân tìm đến những người cùng nhập ngũ với bác mình, được biết bác là chiến sỹ trinh sát trung đoàn 6, thuộc mặt trận B4 Quân khu Trị Thiên Huế. Khi được biết Hội CCB Đại đội trinh sát trung đoàn 6 tổ chức gặp mặt vào ngày 25/3/2012 tại TP Huế, Em trai Lục cá Dẫu cùng cháu Lục Thanh Xuân vào để mong có thông tin. Thật may mắn Phạm Minh Tâm có tham gia(lần họp mặt năm ấy tôi không thể đi được vì mẹ ốm nặng). Sau buổi gặp mặt Tâm dẫn gia đình lên xã Dương Hòa chỉ tay về dãy núi Đá Đen bảo rằng : Anh ấy đang nằm trên đó ! Công việc tìm kiếm Lục cá Dẫu được giao cho Tâm phụ trách. Tâm về Hà tĩnh tìm Hương, rất không may khi về qua cầu Giằng – Hà tĩnh Tâm bị tai nạn giao thông, chiếc xe máy bị chiếc xe công-tơ-nơ đè nát , Tâm nhảy ra, đầu va vào thành cầu, chấn thương sọ são bất tỉnh, công việc tìm kiếm tưởng như đi vào bế tắc. Rất may là Tâm được người đi đường đưa về viên đa khoa tỉnh NA nơi vợ Tâm là BS ở đó nên được điều trị kịp thời, 2 tháng sau dần bình phục. Ra viện Tâm điện cho tôi bảo rằng: Mày xuống đây cùng tao xác định lại nơi Dẫu HS, tao nhớ lại rồi, hình như nó chết ở Ba Lô chứ không phải ở Đá Đen.Không trách được Phạm minh Tâm ,bởi anh ấy nguyên là trung đội trưởng bộ binh, mới được điều lên bổ sung cho đại đội trinh sát. Thời gian Dẫu hy sinh, tổ của tôi đang nằm trong căn hầm bí mật tại chân cao điểm 201 để nắm địch trên căn cứ Nguyễn Trãi.
Vùng núi yên ngựa, Xã Xuân Lộc, Huyện Nam Đông ngày nay.
Sau hơn một năm thu thập thông tin, Hương lại được mời ra. Mở tấm bản đồ tác chiến những năm ấy tôi còn cất giấu được để xác định tọa độ. Ba người thống nhất chấm vào một điểm trên yên ngựa thứ tư của dãy Ba Lô, đồng thời báo cho gia đình Dẫu chọn ngày lên đường tìm kiếm. Tâm không thể đi được, tôi được giao nhiệm vụ trưởng đoàn. 200 bức thư ngỏ khi qua cầu Hiền Lương được trải dọc QL1 với hy vọng những người lính bên kia từng tham gia chôn cất Dẫu còn sống nhặt được để họ cung cấp thêm thông tin. Sau khi làm việc với UBND xã Xuân lộc, yêu cầu cho một người dẫn đường đồng thời là người làm chứng cho việc tìm kiếm,cất bốc. Anh Chiến Xã Đội phó được cử đi cùng. Tôi quay sang :
- Chú dẫn bác vào Bãi gạo, từ Bãi gạo là có thể nhìn thấy dãy núi Ba Lô, nơi Dẫu hy sinh
Đúng như dự đoán, vào đến Bãi gạo, dãy Ba Lô hiện ra trước mặt. Trải tấm bản đồ, lấy la bàn xác định phương hướng, đường kẻ từ điểm đen trên bàn đồ trùng với Yên ngựa thứ 4 của dẫy núi, trên đó vẫn còn cây cổ thụ năm nào như chiếc ô khổng lồ, tôi chỉ tay quả quyết:
- Đi lên cây độc mộc kia.
Đường chim bay khoảng 1km nhưng phải đi hơn 2 giờ mới tới nơi. Khuôn mặt Hương như trẻ lại, cậu ấy hào hứng:
- Đúng 100% rồi. Cây găng vẫn còn đó.
Lòng tôi rạo rực! Không ngờ trí nhớ của mình lại tốt đến thế.


Làm xong các thủ tục tâm linh, hình như chỉ đợi có thế, bất chấp gai góc cháu gái Lục Thị Liên (Cháu gọi Lục Cá Dẫu bằng bác ruột) kéo tôi cùng lao đến dưới gốc cây găng, mọi người cùng chạy theo, tới nơi một tổ ong bị đánh động bay lên, tôi chợt nghĩ: Có lẽ đàn ong năm xưa ân hận với việc đã làm nên lại tụ về bảo vệ nơi Anh yên nghỉ.
Lục Gia Bình em trai Lục cá Dẫu là người dân tộc Sán dìu quen với việc xử lý ong rừng, cậu ta vơ vội nắm lá khô đốt lên xua đuổi đàn ông, tuy vậy mỗi người cũng bị dăm ba nốt ong đốt, riêng tôi bị 2 nốt vào đầu khi về tới Huế phải uống thuốc giảm đau.
Công việc cất bốc được tiến hành nhanh chóng dưới sự chứng kiến của Xã đội phó đi cùng cùng mười người than trong gia đình mừng rỡ nhảy múa như lễ hội, chẳng ai rơi một giọt nước mắt nào, niềm vui ngập tràn trên gương mặt họ.
Bốn giờ chiều ra đến cửa rừng bỗng mây đen kéo đến vần vũ, lác đác vài giọt mưa bay. Mọi người không tin vào mắt mình: Một cây cầu vồng gác chân lên 2 ngọn núi. Vẫn biết đó là sự hòa quyện của thiên nhiên nhưng tôi có cảm giác như đó là máu của lính chiến hai bên như hòa cùng với màu của đất, của cây cỏ, màu của khói lửa đạn bom rồi nối vào nhau như hai bờ chiến tuyến.
Mọi thủ tục pháp lý được Chính quyền địa phương và phòng LĐTB - XH huyện giải quyết nhanh gọn trong ngày hôm sau. Đêm hôm đó chúng tôi cùng nghỉ lại nhà nghỉ Bến Ngự, tôi và Lục Gia Bình nằm 2 giường, khoảng giữa đặt hài cốt Lục Cá Dẫu, tôi không ngủ được và ngồi viết bài viếng anh:
KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN LIỆT SĨ LỤC CÁ DẪU


Hơn bốn chục năm trời ai tỏ


Đêm đêm nằm nghe gió ngàn reo 

Một mình anh đơn chiếc đỉnh đèo

Chiều lại chiều trăng treo tròn khuyết

Đồng đội xưa nào ai có biết 

Bốn mươi năm đói rét chờ mong 

Tiếng gió ngàn cứ ngỡ tiếng ong

Thân đau buốt cắn răng anh chịu

***

Nào biết được rằng sau cuộc chiến

Bao năm trời biền biệt xa nhau

Lại gặp nhau giữa chốn rừng sâu

Lại ôm nhau trong tình đồng đội

Gặp các em mừng mừng tủi tủi

Cùng cháu trai cháu gái vui đùa

Niềm sướng vui ập đến không ngờ

Chuyện thật mà cứ ngỡ như mơ

Bao kỷ vật năm xưa còn đó

Máu thịt anh hóa thành cây cỏ

Đất Xuân lộc cờ đỏ , lộc xanh

Nơi anh nằm rừng vẫn nguyên sinh

Tỏa bóng che anh cây cổ thụ

Trông xa chừng đất trời làm dấu

Cho anh em đồng đội đón về

Tạm biệt Xuân Lộc một chiều hè

Anh kéo mây làm mảnh ô che

Cứ ngỡ anh còn trên trần thế 

Cùng lên rừng xuống bể năm nào 

Thay nhau đài quan sát Chúc Mao
Dãy Răng Cưa năm nào ta vượt
Những đồi Nghệ, núi Bông , Hòn vượn
Đèo Hải Vân in bước chân ta
Lên Tà Lương , A - lưới không xa 
Dịp này về ghé qua Bến Ngự
Anh bảo em : Thằng hay nói chữ ,
Tao thích nghe Ví dặm quê mày
Tuy mộc mạc nghe mãi thấy hay
Tao yêu mày sống ngay, nói thẳng
Tao hẹn mày mai ngày chiến thắng
Đón mày về đất Quảng ninh tao
Đãi món ăn dân tộc Sán Dìu
Mày sẽ hết chê tao “dân tộc”
Than ôi !
Giờ nghi lại lòng đau như cắt
Cả đàn ong vây chặt thân anh 
Anh cắn răng chịu đựng nằm im 
Cho lành lặn trái tim đồng đội
Ngày chiến thắng cháy lòng mong mỏi 
không còn anh đi giữa rừng cờ
Anh ngủ say đến tận bây giờ
Bỗng thức dậy đứng chờ đỉnh núi
Bóng hình anh xa trông vời vợi
Cho người đời vươn tới thanh cao
Gương hy sinh còn đó năm nào
Anh mãi mãi đi vào bất tử
***
Tiễn anh về quê hương xứ sở
Viết mấy lời bày tỏ tâm can
Thay chân đưa tiễn dặm đường
Về quê yên nghỉ tình thương ngập tràn 
Về nơi có xóm có làng
Có đàn cháu nhỏ dâng ngàn nén hương
Ai còn nằm lại chiến trường
Xin anh chỉ lối đưa đường về theo
Ngày mai em lại vượt đèo
Anh về em vẫn dõi theo dặm trường
Thương anh biết mấy là thương
Tiễn anh xin đốt nén hương lòng thành
Anh về quê mẹ Quảng ninh
Chúc anh yên nghỉ an lành ngàn thu
Đừng ai gieo rắc hận thù 
Để anh nghe trọn lời ru Mẹ hiền./.

Tại lễ truy điệu do hôi CCB Thành phố Huế tổ chức tại Đài liệt sỹ Trung đoàn, hài cốt Anh được chuyển sang chiếc tiểu sành do CCB Thành phố tặng . Cuối buổi lễ tôi đọc bài văn tế tiễn đưa Anh trong niềm xúc động của đông đảo nhân dân và đồng đội có mặt . Được các cháu ghi âm, ghi hình và làm bài mở đầu cho buổi lễ tại quê nhà được tổ chức sau đó 6 ngày, ngày 12/6/2013
Rất tiếc tôi và Hương không thể theo xe về Quảng ninh như nguyện vọng của anh ấy, bởi ngày hôm sau lại dẫn gia đình Liệt sĩ Diệp Minh Sắm, quê Quảng ninh lên cao điểm 185, gần đường 12 tìm mộ anh ấy. Mộ do chính Hương chôn cất nhưng khi tìm đến thì máy ủi đã san xuống vực sâu làm đường cho xe cẩu vào khai thác gỗ, gia đình đành lấy nắm đất về xây lăng mộ.
Trước lúc viết chuyện này tôi đã xin ý kiến gia đình Lục Cá Dẫu, cháu Lục Thanh Xuân bảo rằng;
- Tùy bác thôi. Bây giờ bác của cháu đã mồ yên tại nghĩa trang Liệt sĩ huyện nhà, gia đình cháu chẳng có đòi hỏi gì hơn.
Tôi và Lục Cá Dẫu cùng sống và chiến đấu bên nhau 8 tháng 28 ngày. Cảm phục trước hành động cao đẹp của anh nên không thể không viết. Không làm được điều này tôi như có lỗi với người đã khuất và xin kính tặng câu chuyện này cho nhân dân xã Tiên lãng, Huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh nơi đã sinh ra một con người như thế. Một người xứng đáng được tuyên dương Anh hung LLVTND. Nếu lúc đó Anh ấy la lên vùng chạy thì cả bốn chúng tôi sẽ không thoát khỏi tầm hỏa lực của đối phương từ hai sườn đồi bắn xuống và lựu đạn của tổ đón lõng từ yên ngựa và Tâm cũng không thể thực hiện được nhiệm vụ cấp trên giao.
Khi tôi bày tỏ nguyện vọng này với vài Sỹ quan cao cấp trưởng thành từ Trung đoàn, có người nói: “Đó là một kiểu chết như bao cái chết khác, hơn nữa bây giờ bọn mình đã về hưu cả rồi, có làm đề nghị cũng chẳng ai xét cho đâu”. Có thể họ nói rất thật lòng.


Người ít quan tâm đến chính trị cũng hiểu được rằng: Các bên tham gia ký hiệp định 4 bên tại Paris gồm: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN, Mỹ và Chính phủ Việt Nam cộng hòa (thực ra là một trong hai). Bà Nguyễn Thị Bình với cương vị trưởng đoàn và đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời là sự quảng bá để thu hút dư luận thế giới. Đó là một “bài” chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi.
Mỗi bên tham gia ký kết đều mang động cơ riêng, xem ra Mỹ là nước thực hiện nghiêm túc hơn cả. 
Đúng 2 tháng sau, theo Hiệp định đã ký, những người lính Mỹ cuối cùng đã rút khỏi Miền Nam. Những người Việt Nam phát động chiến tranh ở cả 2 phía chỉ chờ có thế. Hiệp định nhanh chóng bị phá bỏ, những người lính vô tội ở hai chiến tuyến lại tiếp  tục đổ máu và ngã xuống trên chính mảnh đất Việt Nam mình.

Sau khi tiêu diệt xong lực lượng đối phương trên Động Giếng, khi rút quân về qua căn nhà “hòa hợp”, đại đội trưởng Phả gọi xạ thủ B.40 lại ghé vào tai:
- Không cần nó nữa !
- Ùng ! oàng !
Hai tiếng nổ xé tai, căn nhà bốc cháy, chẳng khác gì c
ăn nhà một nông dân nghèo bị pháo kích, một cảnh tượng như trong phim hành động Mỹ.
Phát súng B.40 như một điềm gở báo hiệu những ngày tàn khốc lại tiếp diễn.

Sau khi Mỹ rút quân Tổng thống Thiệu như muốn chứng tỏ sức mạnh quân sự của mình, cho pháo binh và máy bay ném bom xuống hầu hết các điểm quân ta chốt giữ. Không ngày nào ngớt tiếng bom đạn.
Không chịu được áp lực đạn bom, Trung đoàn 6 lại phải rút vào s
âu trong rừng. Vùng trung du, đồng bằng và thành phố Huế lại thuộc quyền kiểm soát của chính phủ VNCH. Trung đoàn không hề giành được một tấc đất đồng bằng, không hề quản lý được người dân nào. Tất nhiên cấp trên của ta không chịu chấp nhận điều đó. Giao tranh lại tiếp diễn. 
Thời gian này Trung đoàn trưởng Khởi bị cây rừng đổ đập vào đầu và chết  trên dốc H.15. Trung đoàn phó Trương Đình Thanh - Quyền trung đoàn trưởng khi vừa 29 tuổi. Đại đội phó Thái được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng trinh sát thay anh Lê ra Bắc đi học. Căn cứ Nguyễn Trãi của đối phương nằm trên dãy núi Ba lô, lực lượng chủ yếu đóng trên cao điểm 201. Là một cứ điểm tương đối kiên cố nên không thể ngày một ngày hai ta nắm được một cách chính xác tình hình. Anh Thái quyết định cho đào hầm bí mật nằm ngay dưới chân cao điểm ấy để tránh đi về nhiều lần dễ gặp phục kích. Hàng ngày nhìn xuống hai bờ khe, măng mọc tua tủa mà không dám hái ăn, cả tháng trời chỉ nhai gạo sấy, lương khô, thèm rau xanh đến cháy ruột. Phát hiện vài khóm cây Lạc tiên mọc trên bãi cháy cách hầm khoảng 50m tôi mặc chiếc quần cộc, lấy đất bùn thoa lên khắp người rồi cẩn thận bò ra mang về được một nắm rau xanh, vừa nhóm lửa nấu canh, anh Nông Văn Phượng(Quảng ninh) vội dập ngay lửa và quát:
- Sinh viên chi mà ngu r
ứa. Củi giang đun ngửa, vợ chửa Đ. nghiêng. Mày làm thế khói bay lên trên kia chúng nhìn thấy rồi ăn M.79 cả lũ.
Anh Thái nhìn tôi thương hại:
- Đừng chửi nó mà tội, tao đây 26 tuổi mà chưa biết cái đó dọc ngang là gì, nó mới 21 biết chi mà nghiêng với ngửa. Hơn nữa nó là người Kinh đâu phải như mày người dân tộc có củi giang mà đun nấu.
Anh Phượng như hiểu ra rồi làm mẫu cho tôi xem, quả thật không có tý khói nào bay lên. Gô canh cũng được đun sôi, chỉ nắm rau không có nước để rửa, mà ai cũng như được uống nhân sâm. Còn lại một ít, anh Thái gi
ật lại : “Ưu tiên cho thằng đi hái” .
rồi anh cho thêm tôi một đặc ân:
- Tối nay mày không phải đi nắm địch. 

Sau 2 tháng trời vất vả nắm địch. Trận đánh cao điểm 201 cũng được tiến hành, khi dẫn quân lên không thấy Đại đội trưởng mà chỉ có Đại đội phó Hùng chỉ huy, sau này mới biết bộ phận nuôi quân nấu cơm khê, sợ gặp điềm gở nên đại đội trưởng Tịu cáo ốm cử Hùng đi thay, biết được bụng dạ thủ trưởng mình nên Cậu Ý (khoa văn) là liên lạc đại đội cũng tìm lý do ở lại cùng Thủ trưởng. Trận ấy gặp điềm gở thật, 3 xạ thủ B.40 bắn 18 quả đạn chỉ 2 quả nổ, xạ thủ RPD bị rối băng đạn, hỏa lực ta đấm lưng bộ binh, cuối cùng phải dùng thê đội 2 mới đánh chiếm được. Khi lên tới nơi, bên kia đã bỏ chạy, chỉ còn lại 3 xác chết và 2 người bị thương. Đang trong cơn giận giữ vì đồng đội chết nhiều, lính ta hai người một, một người cầm chân, một người cầm tay, 2 người lính bên kia bị thương được hất tung xuống sườn phía đông cao điểm. Bỗng một người lính bộ binh la lên : 
- Chúng mày ơi. lại đây mà xem.
Một cô gái lõa thể, viên đạn xuyên từ phía sau xé nát một bên ngực. Một xạ thủ cối 60 ly lật xác cô ta rồi lắp đặt khẩu cối lên bụng, anh Thái quát:
- Cậu làm trò gì thế !
Cậu ta cười nhăn nhở :
- Không có cái đế nào êm hơn đế ấy đâu thủ trưởng ơi !
Nói thế nhưng 2 xạ thủ cối 60 cũng thu súng và rút lui, trước lúc đi còn ném lại cái nhìn bặm trợn:
- Đạo đức thế thì ở lại mà chôn cô ta.
Chiến tranh tàn khốc đã biến những người lính hiền lành nhiều khi trở thành ác thú.
Tổ trinh sát cùng mấy anh lính bộ binh kéo xác cô ta cùng 2 tử sỹ xuống giao thông hào, đào đất hai bên lấp vội. Đại đội phó Hùng giục mấy người đang ngồi bên kho hầm quân nhu mở những hộp dò Ba-Lát  thi nhau ăn r
ồi nhanh chóng rút quân.
Một cậu lính nói đùa :
- Có chết thì cũng được chết no thủ trưởng ơi ! Lại đây cùng bọn em làm mấy hộp cho đỡ đói.

Năm 2013 khi đi tìm hài cốt liệt sỹ Lục Cá Dẫu, tôi nhờ chú Chiến Xã Đội phó dẫn lên đỉnh 201 xem có gì đổi khác, chú ấy bảo:
- Trên ấy đã được tu sửa lại thành trận địa diễn tập phòng thủ, các liệt sỹ trên ấy đã được qui tập về nghĩa trang của xã.
Vậy là cô gái kia đã được an ủi phần nào, dẫu sao cô cũng như các đồng đội của tôi, năm hai lần chia nhau hương khói vào ngày 27/7 và ngày thành lập quân đội .
Bất giác tôi nhớ đến chuyện bên nước Tàu hơn 2700 năm trước: Năm 685 trước công nguyên khi Quản Trọng phò tá Tề Hoàn Công thu phục thành công các nước chư hầu, ông đã cho mở 7 nhà thổ trên cả nước phục vụ nhu cầu tình dục cho binh sỹ, một nhu cầu đời thường của con người, vừa giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn nô lệ nữ, vừa yên lính, vừa an dân. 

Nếu bên kia  thắng cuộc  chắc nơi đây dưới chân cao điểm 201 này sẽ là bãi đậu xe rộng lớn, nhà hàng khách sạn mọc lên, người như trẩy hội, một con đường nhựa uốn lượn dẫn du khách lên đỉnh cao này chiêm bái bức tượng một cô gái lõa thể với cặp bồng đào căng mọng, để tưởng nhớ một người con gái đã bất chấp bom đạn ra tận chiến hào phục vụ đời sống tinh thần binh sỹ.


Nơi đây lại trở thành điểm du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế, hàng năm đóng vào ngân sách một khoản tiền không nhỏ.
 Sau vài lần dẫn Trung đoàn trưởng đi thị sát căn cứ NguyễnTrãi, ông ấy ghé tai : “Sau trận này cậu lên ở với mình”
Cứ ngỡ ông ấy nói đùa , thế mà thật. Tháng 7/1973 tôi có quyết định điều về làm công vụ cho Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh. Công vụ - Một công việc tổng hợp, vừa là kẻ đầy tớ lo giặt giũ, cơm nước cho ông ấy hàng ngày, vừa như một tay truyền đạt mệnh lệnh của ông  tới các trưởng ban phòng. Mỗi khi ông ấy đi công tác thì nhanh chóng khoác khẩu tiểu liên P-63 đi trước 5-7 mét để nếu gặp phục kích ông ấy còn có cơ may chạy thoát, nếu gặp mìn thì một mình tôi lãnh trọn. Ngoài ra với khả năng thiện xạ của mình ông còn giao cho tôi khẩu Tô-zet 8 để săn bắn chim, sóc, gà rừng, cải thiện bữa ăn. Thậm chí có nhiều bản báo cáo của trợ lý các ban, ông không ưng ý là nhờ tôi chắp bút lại. Tôi rất được việc cho ông.
Từ ngày lên sống với ông, tôi có nhãn quan toàn diện hơn các hướng tác chiến của trung đoàn, bởi thường xuyên nghe lỏm được các cuộc giao ban, nghe lỏm được các bức mật điện do Trưởng ban cơ yếu đọc cho ông nghe. Khi ông chính thức yêu chị Thu Sen tôi trở thành “cố vấn tình yêu” cho ông ấy và là người đưa và nhận thư cho 2 người, mãi tận sau này muốn giới thiệu tôi với ai chị ấy lại nhắc: Đây là “con chim xanh” của vợ chồng tui.
Khi đang lưỡng lự có nên viết lại chuyện này hay không, một số CCB của Trung đoàn động viên : Cậu cứ viết , đó là một hình ảnh rất sống động nói lên sự khó khăn thiếu thốn của Trung đoàn, chẳng ai có lỗi trong việc ấy cả.
Trung đoàn được thông báo là mấy ngày đón danh hiệu Đơn vị  Anh hùng LLVTND sẽ có đoàn văn công quân khu xuống biểu diễn chào mừng, gọi là đoàn chứ thực ra tính cả người phục vụ cũng chưa nổi chục người, nổi bật nhất vẫn là 3 cô ca sỹ: Thu Sen, Thu Lượng, Thu Hiền. Ba người không biết đã làm điên đảo bao chàng lính chiến mà ở chiến trường Trị Thiên ai cũng thuộc câu đồng dao:
 “Thu Sen- Thu Lượng- Thu Hiền
Cả ba Thu ấy làm phiền quân khu.”

Nổi tiếng hơn cả vẫn là chị Thu Sen, chị ấy đẹp không chỉ ở nhan sắc, không chỉ ở mái tóc dài mượt mà như dòng A-sáp, mà còn đẹp trong lời ăn giọng nói, đẹp trong cách ứng xử hàng ngày. Đây là cơ hội để Trung đoàn trưởng thể hiện mình trước người con gái mà bấy lâu nay ông hằng ngưỡng mộ. Cái khó là lấy gì để chiêu đãi đoàn đây? Thịt hộp, rau rừng ở quân khu không thiếu. Ông nhớ ngay đến Hồ Lầm. Phải chiêu đãi đoàn bằng những món thịt thú rừng. Thịt thú rừng quân khu ít khi có. Hồ Lầm người dân tộc Tà Ôi là thợ săn thiện xạ, được biên chế về trạm xá, chuyên lo thực phẩm tươi sống cho thương bệnh binh. Trưởng phòng hậu cần gọi Hồ Lầm lên giao nhiệm vụ là phải săn cho được vài con lợn rừng hoặc con nai, cả 4 ngày Hồ Lầm đi săn là 4 ngày anh ấy ra một góc rừng mắc võng nằm ngủ. anh chia sẻ :

 - Con thú rừng là của Giàng, Giàng bảo ta đi thì mới bắt về được, còn thằng cán bộ bảo ta đi thì Giàng không cho bắt được đâu. 

Đoàn văn công sắp đến mà heo rừng , nai rừng vẫn còn ở trong rừng. Trung đoàn trưởng lại giao cho tôi về đại đội trinh sát cùng Nông Văn Vàng vào rừng may ra săn được con gì đó , Nông Văn Vàng là người dân tộc Tày quê Tuyên Quang cũng là một tay thiện xạ, hồi còn ở Đại đội trinh sát tôi thường được anh ấy cho đi theo nên cũng biết được một số chiêu săn bắn thú rừng.

Một ngày chui rúc chỉ bắn được chú khỉ bị thương, nó rơi xuống đất rồi bỏ chạy, 2 anh em đuổi theo  nhảy qua tảng đá đầy rêu ngã mặt đập vào đá, chiếc răng cửa bị mẻ một mẩu bằng hạt gạo, mồm toe toét máu, tôi kêu lên:
  - Răng thế này về người yêu chê mất anh Vàng ơi.
Anh ấy quát: 
- Có còn sống trở về hay không mà lo xa, nhanh lên đây giúp tao đuổi bắt nó.
Cuối cùng chúng tôi cũng tóm được con khỉ nó nặng chỉ độ dăm cân. Báo cáo kết quả với anh Thanh, anh ấy quắc mắt:
- Loại ấy mang về nấu lên sặc mùi tanh cho họ nôn hả mày ?
Con khỉ được để lại cho mấy anh em đại đội trinh sát nấu cháo. Cháo chín vớt ra đặt lên lá chối rừng chẳng khác gì đứa trẻ sơ sinh. Anh Thái C trưởng vặn lấy cái đầu cắn từng bộ phận, khi còn trơ ra chiếc sọ và hai hàm rang trắng phếu, anh ấy giơ lên :
-   Đứa nào ăn óc tao cho.
Chẳng ai dám nhìn, anh ấy đập vào gốc cây bẻ ra làm đôi húp chùn chụt. Nhìn anh ấy ăn nỗi kinh sợ không ngăn được cơn đói cồn cào, chẳng mấy chốc chú khỉ chỉ còn lại một ít xương. Cậu Mạnh (y tá) nhặt toàn bộ số xương và vét ít cháo còn lại bỏ vào Gô rồi hỏi mọi người:
 - Có ai ăn nữa không ?
 Chẳng nói chẳng giằng, cậu ta đưa chiếc Gô ra phía sau, một tiếng “sấm Nam vang” phát ra rõ to rồi cậu ta đậy nắp lại và treo chiếc Gô lên cành cây:
- Không ai ăn nữa thì để đó ngày mai tao ăn.
Sáng hôm sau thấy cậu ấy ngồi ăn ngon lành.
Tôi ở lại Đại đội trinh sát thêm một ngày để cùng anh Vàng vào rừng may ra kiếm được con gì nhưng cuối cùng vẫn về tay không. Về nhà thấy cậu Khu là công vụ cho Trung đoàn phó Đuổi đang giã lương khô:
 - Để làm gì vậy mày ?
 - Chẳng có gì chiêu đãi mấy anh chị văn công nên đành nấu chè lương khô.

Vừa từ hội trường tiếp thuốc nước mời khách vừa nhắc nhở cậu Khu trông nồi cháo kẻo bị khê. Cậu ấy lấy đũa đánh và thấy tay nằng nặng, vật gì như chiếc khăn. Thôi chết. Ba chiếc “phụ tùng” của 3 chị văn công hong trên giàn củi trên bếp chỉ còn hai. Làm thế nào bây giờ? Đổ đi ư? Lấy đâu ra lương khô và đường ép để nấu nồi khác. Tôi quyết định giữ bí mật rồi “ dũng cảm” mang ra khe giặt lại rồi phơi lên như cũ.

Sau một đêm biểu diễn mệt nhoài, được bồi dưỡng bát cháo chè khác lạ này cũng có thể coi như một món “đặc sản”. Mọi người xì xụp ngon lành. Tôi chạy đi chạy lại chưa kịp bưng bát thì cậu Khu chạy vội ra đầu hè nôn như thể ngộ độc thức ăn. Bầu không khí có vẻ như lắng xuống, tôi chạy vào trấn an mọi người:
 - Lúc chiều nó ăn nhiều nấm, có lẽ cậu ấy ăn phải nấm độc.
Anh Tuyến trưởng ban bảo vệ chạy ra chỗ cậu Khu vừa nôn rồi kín đáo gọi tôi ra góc rừng:
- Mày khai thật đi. Thằng Khu nôn ra làm gì có nấm trong đó, toàn chè lương khô. Nếu mày có hành động gì không qua nổi mắt tao đâu. Tụi sinh viên chúng mày còn dám chạy sang bên kia đầu hàng địch thì không có gì mà chúng mày không làm. Đã đến nước này thì không thể giấu được nữa tôi đành khai ra sự thật:
 - Nếu anh nghi ngờ tôi bỏ thuốc độc để hại mọi người thì bát của tôi còn trong ấy, tôi vào ăn cho anh xem.
Như một diễn viên chuyên nghiệp tôi vào hội trường tươi cười chào hỏi mọi người và bưng bát cháo ăn như thể chưa khi nào được ăn, cố nuốt cho trôi nhanh xuống dạ dày để nhỡ có buồn nôn cũng không thể nôn ra được. Ăn xong mấy chị văn công đề nghị:
- Nghe nói công vụ của Trung đoàn trưởng hát ví dăm hay lắm, hãy hát cho mọi người nghe đi.
Tôi chẳng ngại “múa rìu qua mắt thợ”, mượn cây Ghita và bập bùng hát điệu ví quen thuộc:
 “ Đèn có khêu mới rạng…”
Hát chưa xong mọi người đã lăn ra mà cười. Mấy chị còn khen : “Trung đoàn trưởng khéo chọn công vụ thật”.
Chẳng còn ai nhớ đến chuyện cậu Khu vừa nôn lúc nãy.

Thú thực ngày ấy cả hai thằng chúng tôi đều chưa có vợ nên cứ nghĩ “những thứ ấy” của chị em bẩn thỉu lắm. Nào ngờ khi lấy vợ rồi mới biết được “những thứ ấy” cũng như các loại trang phục khác, cũng như chiếc mũ Bê-rê, mũ phớt đội đầu. Thời nay thiếu nữ tuổi như mấy cô văn công thời ấy ”những thứ ấy” cũng lắm kiểu lắm mốt, mua về mặc vào còn đứng trước gương ngó trước ngắm sau, thậm chí có cô còn bắt chồng cho vài lời nhận xét. Còn thời ấy thứ các cô ấy mặc cũng chẳng khác gì thứ phát cho nam giới chúng tôi. Mỗi người 2 chiêc, chiếc mặc chiếc nghỉ. Không may lội khe suối bị ướt không tranh thủ hong khô ngày mai lấy gì mà thay.
Từ đó giai thoại “Chè Thu Sen” không có người lính nào ở Quân khu Trị Thiên mà không biết. Có thể chuyện được lộ ra từ anh Tuyến Trưởng ban bảo vệ Trung đoàn .?!


Thiếu tướng Trương Đình Thanh - Tư lênh QK4
Nguyên Trung đoàn trưởng E6
Nhưng cũng thật thú vị, nhờ có cuộc giao lưu của đoàn văn công lần ấy mà tình yêu giữa Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh và cô văn công Thu Sen nhanh chóng đơm hoa kết trái. Một năm sau vào ngày 18/10/1974 đám cưới của hai người được tổ chức tại hội trường Quân khu. Sau ngày giải phóng TP Huế 4 tháng, ngày 25/7/1975 đứa con trai đầu lòng của họ chào đời.
Nhiều người bảo: Đằng sau Trung tướng tư lệnh QK4 Trương Đình Thanh là bóng hình chị Thu Sen.


Là người đã cùng anh ấy vào sinh ra tử, tôi hiểu anh hơn ai hết. Trong chiến đấu gan dạ đến lì lợm, ngoài đời là người hiền lành đức độ và chân thành, chân thành đến mức mà anh chủ động nhận tôi làm em kết nghĩa. Những ngày nghỉ anh vẫn thường xuyên đến nhà tôi để được tận hưởng bữa cơm gia đình. Có lần không biết đùa hay thật, anh ấy bảo: Mày vội vàng chuyển ngành, nếu ở lại quân đội bây giờ cái ghế Tham mưu trưởng Quân khu còn ai chen vào được.
Rất may là tôi không ở lại để ngồi vào ghế ấy, bởi ngày 16 tháng chạp, năm Giáp Thân (2004) anh đã cùng Thiếu tướng - Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng QK4 và 14 người khác đã tử nạn khi chiếc máy bay trực thăng bốc cháy trên đảo Hòn Mê. Cả 16 người phải xác định AND mới tìm ra danh tính.
Năm ấy anh vừa tròn 60 tuổi. Sắp kỷ niệm năm thứ 12 ngày anh vĩnh viễn ra đi. Nếu không vào được tôi sẽ xin được phép nhờ chị Sen thắp lên mộ anh một nén hương thơm tưởng nhớ một con người tôi luôn kính trọng.


Khoảng từ nửa cuối năm 1973, chiến sự trên mặt trận do Trung đoàn đảm nhiệm có phần lắng dịu. Công việc chủ yếu là tiếp tục mở đường 73 nối đường HCM đoạn từ A- lưới đi Nam Đông - Khe tre, chuẩn bị cho đại quân đánh xuống đồng bằng trong những năm sắp tới. Một công việc không kém phần quan trọng là chuẩn bị đón danh hiệu đơn vị Anh hùng  LLVTND. Để nhận được 2 chữ ANH HÙNG, trong suốt 10 năm chiến đấu, 12.700 cán bộ chiến sỹ của trung đoàn đã tử trận (mười hai ngàn bảy trăm). Nếu tính biên chế của trung đoàn trước mỗi chiến dịch khoảng 1.200 người thì trong 10 năm chiến đấu và công tác, trung đoàn đã hơn 12 lần bị xoá sổ. Đây là số liệu của  Nguyễn Xuân Chín - Nguyên trợ lý thống kê Ban quân lực Trung đoàn cung cấp, một con số ít người nghĩ tới. Nhưng khi đặt bút tính lại thì thấy đó là một con số quá nhỏ bé đối với những ai đã từng bước ra từ cuộc cuộc chiến: 12.700 người/(365ngàyx 10năm=3650 ngày)=3,5 người/ngày. Bởi chỉ tính riêng một ngày cuối tháng 11/1974, trong chiến dich đánh chiếm dãy Mỏ Tàu, gần 500 trăm tân binh vừa được bổ sung 3 ngày trước sau chiến dich bất thành  rút quân ra chỉ còn chưa đến 50 người mình đầy thương tích. Từ đài quan sát đóng trên điểm cao 144 tháp tùng Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh lui về sở chỉ huy tiền phương, anh đi như lê từng bước, tôi cố gắng động viên, an ủi anh:
  - Chuyện đã rồi, đường lên đỉnh Mỏ Tàu dốc như thế, pháo bầy bắn theo sào theo mẫu như thế, ai chỉ huy cũng thế cả thôi, làm sao mà tránh khỏi thất bại hả anh.
   - Anh vẫn biết thế, nhưng vừa đi cưới vợ về, thất bại ê chề thế này khó ăn nói với cấp trên, cấp dưới chắc nhiều người dị nghị.
   - Cấp trên thì lo gì, cùng lắm thì cách chức Trung đoàn trưởng chứ chẳng ai cách được chức làm chồng của anh là được rồi, còn cấp dưới chẳng ai trách cứ anh đâu, ác liệt như thế anh em biết cả, Gia Cát Lượng sống lại cũng ôm đầu máu mà chạy.
   - Lúc này mà mày vẫn còn đùa được.
   Đang đi bỗng anh đứng lại ngó vào bên lề đường, nơi có vài ngôi mộ được lính vận tải vừa chôn tối hôm qua. Anh bước vào và bật khóc. Tôi chưa hiểu anh khóc vì lý do gì, tiếng anh rất nhỏ lẫn trong tiếng nấc nhưng tôi vẫn đủ nghe :
   - Anh bất lực, anh xin lỗi các em, để các em phải chết oan uổng thế này, mong các em phù hộ cho Trung đoàn ngày mai đánh thắng.
 Anh quay lại tôi :
   - Em ở lại gặp mấy cậu ở đại đội vận tải, cùng họ chôn lại ngôi mộ này, anh về một mình cũng được.
  Anh bước đi, ba ngôi mộ nông choèn hiện ra trước mắt tôi. Trời đất ! Một ngôi mộ 2 bàn chân còn nhô lên mặt đất. Có lẽ tử sỹ quá nhiều nên anh em vận tải đào cạn chôn vội trong đêm.

   Xong công việc về tới sở chỉ huy tiền phương, một cảnh tượng tan hoang, 2 thi thể bị bom Napan cháy đen, hỏi ra thì được biết đó là thiếu tá trung đoàn phó Trịnh Khắc Đuổi và cậu Khu công vụ của ông, người một năm trước nôn thốc nôn tháo khi ăn chè lương khô. Anh Thanh đang ngồi gục đầu dưới một gốc cây, chạy về chiếc lán nửa chìm nửa nổi làm cho anh Thanh và tôi, chiếc bồng đựng tư trang của 2 người đang leo lét cháy, dập được lửa thì mọi thứ đã cháy sém, chiếc ví da đựng ảnh và 167 đồng tiền miền Bắc chỉ còn lại 2/3. Tôi cứ tiếc hoài , nếu ảnh người yêu và số tiền đó khi đi trên đất Lào đem đổi gà và chó cho đồng bào thì cả tiểu đội ăn mấy ngày thoả nỗi thèm thuồng.
  
Mười năm gian khổ ác liệt đói khát và chết chóc là vậy, nhưng tháng 3/ 1975 đánh chiếm TP Huế thì lại quá dễ dàng. Nếu Đại đội trưởng trinh sát Phạm Văn Lân (Hải phòng) không vì lòng tốt của mình thì cả Trung đoàn không hề mất một viên đạn và cũng chẳng hy sinh thêm ai. Đại đội trưởng Lân dẫn một số cán bộ luồn sâu nắm tình hình đối phương. Sáng 25/3/75 vượt qua sông Hương trong yên tĩnh, khi lên bờ đi qua một căn nhà bỏ không, cửa mở toang, khi vừa chạm tay vào cánh cửa thì bất ngờ một quả mìn Cờ-Lây-mo nổ trùm lên đội hình cả tổ, khi mấy người bộ binh chạy đến thì anh chỉ còn thều thào:
  - Mình thấy căn nhà bỏ không, cửa mở, định khép lại giúp họ…
Nói được chừng ấy rồi anh tắt thở, 2 người cùng đi với anh là liên lạc Phạm Dự (Thái bình), trinh sát viên Phúc (Hà Nam) cùng chung số phận. Sau đó được biết đấy  là nhà của một viên sỹ quan quân lực VNCH, trước lúc rút chạy đã kịp cài lại quả mìn trước cổng nhà mình.

Năm 1996 khi vào thành phố Huế công tác, biết hài cốt các anh năm 1979 đã được qui tập về nghĩa trang Thuỷ Bằng, tìm mãi chẳng thấy tên 3 người tôi cùng mấy CCB Trung đoàn tìm gặp cô Êm - Xã đội trưởng dân quân năm ấy, được cô cho hay:
- Năm ấy cất bốc cả mấy trăm hài cốt, 3 người của trung đoàn 6 chỉ mới được 4 năm, quá hôi thối, những người dự lễ không chịu được nên tôi cho đưa lên trước, chôn ở hàng trên cùng từ trái sang phải. Chết bom đạn trên rừng mà mất mộ, mất tên thì còn chấp nhận được, đằng này chết khi TP đã giải phóng thì đau lòng lắm. Chúng tôi quyết định mời thân nhân 3 gia đình vào bàn cách trả lại tên cho mỗi người. Khi khai quật cả 3 ngôi mộ, cậu Dự có hàm răng khểnh như đang cười cùng chúng tôi. Tôi và Dự thương nhau lắm, cậu ấy là người thay tôi làm liên lạc đại đội khi tôi lên làm công vụ cho Trung đoàn trưởng. Cậu Phúc và anh Lân thì quá rõ ràng. Phúc cao kều còn anh Lân người thấp đậm. Gia đình anh Lân không thể vào được nên Hội CCB- E6 tại TP Huế cử Nguyên Xuân Chín và Lê Văn Lý mang hài cốt anh về giao cho gia đình tại quê nhà tại Thuỷ Nguyên – Hải phòng. Lần đầu tiên tôi đã cùng anh em CCB làm được một việc nghĩa đối với đồng đội đã ngã xuống chiến trường năm xưa./.


Bữa cơm chiều ngày 22/3/75 của Ban chỉ huy Trung đoàn có cả thịt gà luộc và gà nấu xáo. Vào bữa ăn , anh Thanh hỏi: 
- Thịt gà đâu mà nhiều thế này ? 
- Cả hai con nuôi bấy lâu nay em thịt luôn. Trung đoàn sắp chuyển đi em đâu mang theo được.
Anh Hộ chính ủy hỏi với vẻ xoi mói :
- Ai bảo với cậu Trung đoàn sắp chuyển đi ?
- Em thấy mấy anh ở Ban Cơ yếu đan lồng nhốt gà 2 hôm nay.
Anh Thanh nhận xét : 
- Thằng này tinh như con cáo.
Chính ủy Hộ lại nhìn một góc độ khác:
- Nếu thằng này là điệp viên của phía bên kia cài cắm vào thì mọi động tĩnh của Trung đoàn không qua nổi mắt hắn.
Tôi nhanh nhảu đáp lại :
- Như vậy là 2 thủ trưởng thừa nhận trung đoàn sắp hành quân đi xa rồi ?!
Anh Thanh mắng yêu :
- Cái thằng… !
Chả là từ ngày lên làm công vụ cho trung đoàn tôi có thói quen quan sát mọi động tĩnh của Ban cơ yếu, đó là cơ quan nhận và dịch mật điện, nhà hoặc hầm bao giờ cũng bố trí gần chỉ huy Trung đoàn. Trong ban có anh Nga, người Kim Liên cách xã tôi chỉ một con đường 46, là lý do để tôi tiếp cận làm thân với mọi người. Ai cũng thương yêu và mến tôi, hơn nữa không dại gì mà họ không yêu tôi, thậm chí nhiều người còn nịnh tôi bởi họ biết rằng : Trong các bữa cơm của Ban chỉ huy, một lời nhận xét tốt dù vô tình hay cố ý về ai đó đều có lợi cho họ, tôi chẳng khác gì nô tài cho Hoàng thượng. Ban Cơ yếu có một qui định bất thành văn là khi tấm vải đen đã được kéo ra che cánh cửa thì kể cả Trung đoàn trưởng cũng không được bước qua. Tôi phát hiện ra điều này: Khi họ làm việc thì có tiếng máy phát điện quay tay chạy vo vo và tiếng mooc tín hiệu tích ! Tè !, Nếu tấm vải che kín, không có 2 thứ tiếng đó là nhất định họ đang làm điều khuất tất, hoặc là bắn thú rừng về làm thịt ăn riêng, hoặc ai đó vào bản xin được mấy củ sắn về luộc ăn cho đỡ đói. Mỗi lần như thế tôi đứng ngoài tấm vải nói khẽ: 
- Không cho em là em mách chính ủy. 
Thế là từ trong tấm vải một cánh tay thò ra kèm theo miếng sắn luộc hoặc thamh lương khô.
Điều tôi dự đoán đã không sai. Ngày 24/3/75 toàn Trung đoàn lặng lẽ rút khỏi hậu cứ Khe Rùa, theo bờ Nam sông Tả Trạch luồn qua 2 điểm cao do Quân lực VNCH chốt giữ là Đá Đen và Hòn Kệ. Tối hôm đó đội hình đi đầu đụng vào tốp lính từ Hòn Kệ rút chạy, 2 bên choảng nhau nhưng không ai việc gì. Nhận được tin, ban chỉ huy trung đoàn nhận định: Đội hình hành quân đã trúng ổ phục kích của đối phương và cho dừng chân tại xã Dương Hòa. Tối 25/3 tiếp tục tiến về Xã Thủy Bằng, qua lăng Khải Định, lăng Tự Đức chạy qua cầu Bạch Hổ để vào Đại Nội. Khoảng hơn 7 giờ sáng ngày 26/3 bộ phận đi đầu của Trung đoàn hạ lá cờ nửa xanh nửa đỏ trên cột cờ Phu Văn Lâu xuống và kéo lá cờ của trung đoàn mang từ hậu cứ lên, với lý do : Lá cờ của trung đoàn to hơn, sau này được biết lá cờ bị kéo xuống do E101 F325 cắm trước đó lúc 12h ngày 25/3/75. Chiều 26/3 toàn trung đoàn đã chiếm lĩnh các vị trí được phân công. Chúng tôi vào khi thành phố lặng yên, thỉnh thoảng gặp vài cụ già, chắp tay chào:
- Con chào các ông ! ( Cách xưng hô như lính bên kia khi gặp chỉ huy)
Dân TP Huế như chim đậu cành cong, họ đã có bài học xương máu từ năm Mậu Thân - 1968, chưa mấy ai dám biểu lộ tấm lòng mình.

Sau này được biết, đường tiến quân của Trung đoàn là do Bộ tổng tham trực tiếp vạch ra, đó là con đường ngắn nhất và bí mật bất ngờ nhất để tiến vào Thành ph nhanh chóng và an toàn nhất. Cấp trên có ý định tạo điều kiện thuận lợi để E6 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lần thứ 2. Nhiều người coi đó cũng là điều hợp tình bởi Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh là con rể của Tư lệnh kiêm Bí thư Quân khu ủy - Thiếu tướng Hồ Tú Nam, tên thật là Nguyễn Văn Thanh cũng là một người quê Quảng Bình, mặc dù chị Thu Sen vợ anh Thanh chỉ là con nuôi nhưng được ông cưu mang từ thưở thiếu thời và coi chẳng khác gì con đẻ .

Lúc đầu vào thành phố tôi và anh Thanh được bố trí ở ngôi nhà số 26 đường Ông Ích Khiêm nằm trong Đại Nội, nhà số 24 là của viên thiếu úy sỹ quan Quân lực VNCH tên là Nam, nhà có cô em gái tên là Hồng. Ngoài tình cảm quân dân, cô ấy nhanh chóng bị tôi chinh phục bởi nhiều tài vặt, điều cô ấy thán phục nhất là giúp cô ôn lại chương trình toán lớp 12 mà cô đang dang dở vì chiến tranh. Khi biết tôi là sinh viên khoa toán ĐHSP Vinh, cô ấy tròn mắt hỏi:
- Sao anh học hành như vậy mà lại chịu đi làm đầy tớ cho ông kia, ông kia chắc cũng học cao lắm? ( Khi ấy anh Thanh mới chỉ học xong lớp 7) 
Cô ấy gọi công việc của tôi là “đầy tớ”. Khi đã thân quen, tôi mang khẩu Tô-zet 8 cùng cô ấy ra mấy cây cổ thụ bắn chim, chim bồ câu trời sao thân thiện với con người đến vậy, súng nổ là chim rơi, cô ấy nhận xét: 
- Lính anh Nam nhà em thua các anh là phải, các anh bắn như trong phim. Có điều lính bên bọn em không ai bắn chim trong Đại nội này đâu. Sau này tôi mới hiểu, câu nói “Lính bên bọn em không ai bắn chim trong Đại nội này đâu” như một lời cảnh báo để nói rằng : Các anh tàn nhẫn lắm.

Chỉ một thời gian rất ngắn sống bên số nhà 24 đã để lại trong tôi nhiều ký ức sâu đậm. Anh trai cô ấy luôn tránh mặt tôi nhưng khi trung đoàn bộ chuyển sang đóng trong khu nhà cụ Ngô Đình Cẩn , anh đã tặng tôi bức ảnh gia đình với dòng chữ “Gửi em tấm hình - Nhớ em nhiều” , khi viết tới đoạn này, vợ tôi chạy đi tìm bức ảnh nhưng đã không còn. Tôi không trách các con bởi chúng đã loại bỏ những bức ảnh ố vàng bong tróc trong chiếc album để lồng vào đó những bức ảnh mới, chúng đâu hiểu được giá trị sâu xa sau bức ảnh. Nếu ngày ấy tôi chưa có Viên Bạch Ngọc và cứ tiếp tục sống cạnh ngôi nhà ấy thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra và đời tôi không biết kết cục sẽ như thế nào.

Sống với nhân dân thành phố một thời gian, họ hiểu được bản chất những người lính chúng tôi. Nói theo cách của họ: “Hiền chi mà hiền dữ !”. Đúng thế, nhiều anh bị mấy cô học sinh trêu chọc còn đỏ cả mặt, họ yêu chúng tôi ở đức hiền lành, thật thà, trong sáng và nhiệt tình giúp đỡ nhân dân. Những hôm đi làm thủy lợi giúp dân thì khỏi phải nói, anh nào anh nấy lấm như trâu đm song không ai kêu mệt. Và điều gì đến sẽ đến, đã xuất hiện những cặp đôi hoàn hảo, những anh lính giải phóng đi bên những cô nữ sinh áo dài màu tím thướt tha . Giáp K6 và Huyền là một cặp đôi điển hình. Những ngày nghỉ 2 người lại ngồi trên chiếc xe Honda 50 lượn khắp TP Huế, có hôm người ta còn thấy 2 người nằm ngắm trời mây bên bờ Nam sông Hương, chiều hoàng hôn mặt sông như dát vàng, 2 người quên cả ăn, quên cả về đơn vị khiến có hôm chỉ huy phải cử người đi tìm. Huyền đã chủ động đề nghị Giáp xin phép về Hà Tĩnh báo cáo bố mẹ vào thưa chuyện với bố mẹ mình, Giáp thành thật bảo:
- Chưa được đâu. Để anh báo cáo đơn vị có cho phép không đã chứ. 
Huyền ngây thơ hỏi lại : 
- Sao kỳ vậy, trai gái yêu nhau cũng phải được chỉ huy cho phép là sao ?
Huyền cùng Giáp đến gặp chỉ huy thật, sau khi nghe 2 người trình bày, vị chỉ huy mặt lạnh như tiền: 
- Không được. Lính giải phóng chúng tôi không quan hệ với đối tượng như cô, cô là con sỹ quan Ngụy, làm sao chúng tôi ngồi cùng mâm với những người vừa bắn giết chúng tôi được . 
Chẳng đợi vị chỉ huy nói hết, Huyền thanh minh:
- Bố em là sỹ quan thật đấy nhưng ông ấy là bác sỹ, cả đời ông có bắn giết ai đâu.
- Là bác sỹ chữa lành cho lính để nó quay lại bắn chúng tôi, như thế mà vô tội được à ?
Cuộc tranh luận còn kéo dài, cuối cùng vị chỉ huy khẳng định:
- Tôi đã nói không được là không được từ nay yêu cầu 2 người chấm dứt mối quan hệ này đi.
Từ đó quan hệ giữa 2 người không những không chấm dứt mà còn diễn ra một cách công khai hơn, như để thách thức ,trêu ngươi. 
Nhiều cuộc họp để kiểm điểm Giáp được tiến hành. Giáp bị phê bình nào là không có lập trường quan điểm bạn thù, mơ hồ mất cảnh giác ăn kẹo bọc đường của kẻ thù. Cuộc họp tối 20/7/75 trong khi chính trị viên đang thao thao bất tuyệt thì Giáp đứng dậy đi ra cổng cầm tay Huyền đang đứng dấu mình theo dõi kết quả buổi họp r
ồi bỏ về nhà…
5 giờ sáng ngày hôm sau đài quan sát đóng trên tháp chuông nhà thờ Phú Cam báo về: Phát hiện 2 ánh chớp của 2 loạt AK nổ trên đỉnh núi Ngự Bình, khi mọi người chạy lên thì thấy 2 thi thể lõa thể nằm đè lên nhau. Các đơn vị khẩn trương điểm danh quân số, B3 C1 K6 vắng Trần Đình Giáp. 



Được về sống trong lòng dân, mà lại là dân thành phố Huế mới diễm phúc làm sao. Mấy năm ở rừng thân phận chúng tôi chẳng bằng con khỉ, con khỉ còn được nhảy múa tung tăng, nơi nào có bom đạn thì nó chạy vào rừng sâu. Còn chúng tôi nơi nào nhiều bom đạn lại đương đầu ra hứng chịu, anh nào không chịu được lui về tuyến sau thì bị quy tội thoái thác nhiệm vụ, giảm sút ý chí chiến đấu. Con khỉ đói thì có hoa quả lá rừng, chúng tôi đói các thứ ấy cũng đâu có mà ăn, những cao điểm lính ta chốt giữ bom xới tung lên như đất bột. Đói đến mức mà sau mỗi trận giành thắng lợi, việc làm đầu tiên là tìm hố rác trên căn cứ vừa chiếm được moi tìm hộp giò Ba lát của chúng bỏ lại thi nhau ăn, mặc cho xác chết còn nằm ình ra đó, còn sống là phải ăn cái đã, ăn no một chút thì càng tốt, kẻo nhỡ ra bữa tiếp theo lại không có mà ăn. Xác chết ư ? Sợ gì ?Ngày mai ngày kia rồi cũng đến lượt mình nằm ình ra như thế. Chúng tôi thông báo cho nhau về cái chết của bạn bè, đồng đội bình thường lắm: Thằng A, B,C…chết rồi! Chết ở mô? Chết ở Sơn Na. Cái chết như một điều hiển nhiên. Ngày ấy chúng tôi còn trẻ lắm đều trên dưới hai mươi, sức sống tràn trề, mãnh liệt. Ở cái tuổi ấy nhiều hôm ngước nhìn lên ngọn cây bắt gặp cảnh lũ khỉ ân ái nhau mà mặt thằng nào thằng nấy ngây ra như kẻ mất hồn.

Được về với dân là cơ hội để chúng tôi được trở lại làm người tử tế. Ngày còn đối mặt trên chiến tuyến, những người lính ở cả 2 phía giống như những kẻ khát máu, bắn đối phương ngã gục nếu người kia chưa buông súng khỏi tay thì sẽ bồi thêm vài ba phát nữa, sợ anh ta giả vờ chết quay lại bắn mình. Khi giáp lá cà, lưỡi lê đã cắm phập đúng tim, chỉ cần rút lưỡi  lê ra là hết phương cứu chữa, thế nhưng khi người ấy ngã vật ra còn tiếp tục đâm năm bảy nhát cho hả giận, cứ như người ấy vừa giết chết cha mẹ mình. Về với dân là cơ hôi được biểu lộ tình cảm chân thật của mỗi người, được quan hệ tiếp xúc với nhân dân, để được dân yêu thương, đùm bọc chở che. Những ngày đầu dân còn dè dặt, nhưng một thời gian rất ngắn mọi ngăn cách đã không còn. Không ai nỡ ghét bỏ chúng tôi, những người lính hiền lành thật thà đến ngây ngô. Vào chợ Đông ba mua một chục chanh chỉ lấy đúng 10 quả trả lại số dư thừa ,chứ biết đâu dân Miền Nam sớm tiếp xúc cơ chế thị trường để thu hút khách hàng mua một chục sẽ được khuyến mại thêm 2 quả, có người thêm 4 quả. Mấy chị bán hàng đấm vai nhau cười, chẳng biết họ cười vì lý do gì. Có anh còn thật thà bảo:
  - Các chị đếm sai còn cười gì nữa.

Ai đã một vài lần tiếp xúc đều sẵn lòng đùm bọc thương yêu. Họ sẵn sàng gả con gái cho nếu có cảm tình với con gái họ mà không tính toán thiệt hơn, thậm chí cũng chẳng cần tìm hiểu đã có vợ hay chưa. Có người cảnh giác khuyến cáo: Họ muốn gả con gái cho chúng tôi là muốn tìm một chỗ dựa, một chỗ nương thân nếu có cuộc tắm máu xẩy ra. Đó là quan niệm của những người cực đoan. Nếu cần tìm một chỗ dựa họ phải tìm đến những sĩ quan chỉ huy, người có quyền lực. Đằng này những cặp đôi mà tôi được biết đều là những mối tình trong sáng hồn nhiên và không kém phần mãnh liệt. Giáp và Huyền là một cặp đôi như thế.

Vụ án mạng xẩy ra, chẳng khác gì quả bom tấn nổ giữa lòng thành phố sau chiến tranh. Ban chuyên án được thành lập, sợ cấp dưới báo cáo không trung thực, thời gian này chị Thu Sen đã về ở cùng để có cơ hội chăm sóc chồng. Việc bếp núc của tôi tương đối nhàn hạ nên anh Thanh giao cho tôi bí mật theo dõi sự việc. Trong ban chỉ huy có người đề nghị phải xử vụ này thật nghiêm khắc để làm gương cho nhiều người khác, thậm chí đề nghị tước quân tịch của Giáp trước khi đem đi mai táng, nhưng anh Thanh thì không, anh ấy bảo:
  - Dư luận của vụ án đã là một lời cảnh báo sâu sắc với mọi người, cậu ấy đã chết, nghĩa tử là nghĩa tận, cho mai táng như một tử sĩ, sau đó báo cho gia đình biết, bởi trường hợp này không thể coi là liệt sĩ.

Sau khi khám nghiệm tử thi và hiện trường, kết luận : Huyền chết bởi 2 viên đạn vào ngực, toàn thân không có viết xây xước, vùng kín có tinh dịch đàn ông. Giáp nằm chéo trên thi thể Huyền, một đường đạn đi từ cằm dưới lên đỉnh đầu chứng tỏ Giáp đã dùng ngón chân cái đạp cò khẩu AK…Kết luận :Cô gái đã tự nguyện trao thân cho người con trai và để người con trai bắn mình trước lúc anh ấy tự sát. Tôi thoáng nghĩ: Một kết luận phần nào có lợi cho Giáp.
Bố Huyền  từ trại cải tạo vừa được cho về gặp con. Khi xe đơn vị lên đưa xác Giáp về, ông ấy rụt rè bước ra nói :
  - Tôi có một đề nghị nho nhỏ mong các ông chấp nhận cho: Dù sao 2 đứa chúng nó cũng đã thực sự thương nhau và cũng thực sự nên vợ nên chồng. Xin các ông cho 2 đứa  được nằm bên nhau dưới chân đồi này, rồi đây gia đình tôi không thể ở lại. Cho chúng nằm bên nhau để chúng đỡ tủi thân
  Tôi nghe một vài tiếng xì xào:
  - Ông ấy là sĩ quan Cộng hoà đấy, ông ấy là bác sĩ quân y
  - Ông ấy là bác sĩ, là cấp uý nên chỉ phải tập trung cải tạo ở Bình Điền.
Việc  ông đề nghị thật  tình người nhưng đơn vị không ai dám quyết đành phải báo mời gia đình Giáp vào để 3 bên thương lượng.
 Gặp con trong hoàn cảnh ấy, bố giáp khóc như mưa như gió:
  - Con ơi! Bao năm chiến trường con không chết, về đây con chết vì một người con gái, sao con nông nổi, dại đột thế con ơi !

Chẳng ai cầm được nước mắt. Khi đã bình tĩnh lại ông đề nghị cho phép mang con về chôn cất tại quê nhà. Bố Huyền chạy ra quỳ lạy trước mặt bố Giáp, ông nói rành rõ từng lời:
  -Tôi xin anh, tôi cắn rơm cắn cỏ xin anh, xin anh để cháu lại đây cùng con gái tôi, tôi với anh vừa mới biết nhau, nhưng các cháu biết nhau 3 tháng nay rồi, cháu cũng đã một vài lần lên thăm tôi, dẫu chưa cưới xin chi nhưng chúng nó cũng đã thương nhau như vợ chồng. Anh nghĩ mà xem, trên trận tuyến nó không chết vì súng đạn của chúng tôi, về đây lại chết bởi súng đạn của nó, anh đưa nó về quê dân làng biết chuyện họ còn coi cháu ra gì. Hơn nữa để nó nằm đây còn được làm bạn với nhiều chiến hữu của nó…Ông nói, có lẽ ông đã cạn từ để nói mong bố Giáp chấp nhận.



Còn bố của Giáp sau 2 ngày vật vã, câu nói của bố Huyền như như xé nát óc ông. Ông ấy nói đúng:”Dân làng biết chuyện, họ còn coi cháu ra gì nữa”. Cuối cùng ông quyết định để Giáp nằm lại bên người con gái mà anh điên cuồng thương yêu. Năm 2015 vào dự kỉ niệm 40 năm giải phóng Huế gặp mấy CCB trung đoàn lấy vợ, định cư và công tác tại Huế tôi kể:- Mấy năm trước bố mẹ Huyền gửi tiền về xây lăng mộ cho 2 người đẹp lắm. Không hiểu vì tâm linh hay vì quá cảm xúc khi viết lại chuyện này mà  2 đêm liền tôi nằm mơ đang đi tìm mộ 2 người, trên đường đi gặp nhiều đồng đội nằm, ngồi trên những bờ ruộng chỉ lối cho tôi thật nhiệt tình. Nếu không có gì đột biến về sức khỏe  năm 2017  tôi sẽ đi theo con đường mà các đồng đội năm xưa đã chỉ dẫn xem hư thực thế nào. Đến để thắp hương cho 2 người. Dù gì thì Giáp với tôi 42 năm trước và cho tận bây giờ vẫn là đồng đội của nhau. Dù Anh không nằm trong nghĩa trang Liệt sĩ, nhưng bù lại 42 năm qua vợ chồng Anh vẫn bên nhau, còn hạnh phúc hơn nhiều so với 3 thầy giáo và 64 sinh viên ĐHSP Vinh nhập ngũ cùng tôi vẫn còn nằm lại rừng sâu đến nay vẫn chưa tìm được mộ, nếu có được quy tập về nghĩa trang liệt sỹ  thì cũng trở thành vô danh.
Những tưởng vụ trọng án Giáp – Huyền đủ thức tỉnh trái tim những vị chỉ huy vô cảm, nào ngờ cách đó không lâu lại xẩy ra vụ án còn nghiêm trọng hơn tại đại đội thông tin của trung đoàn làm 3 người thiệt mạng…
 

Ai đã từng đến Huế dù đi hết lăng tẩm các triều vua chúa Nguyễn, dù thưởng thức hết bánh Nậm, bánh Bèo, bánh xèo , bánh Ít, xuống Cồn ăn cơm hến…nhưng chưa vào Thuỷ Dương thưởng thức hương vị của bánh canh cá lóc thì cũng coi như chưa đi thấu Huế. Món ăn tuy dân dã nhưng hội đủ hương vị, bản sắc của con người xứ Huế. Cũng dùng bát để đựng thực phẩm nhưng không to như bát ở nhiều quán phở Bắc - Nam . Ăn vào tiết trời se lạnh thì càng tuyệt, vị cay nồng của tiêu của ớt quyện lẫn mùi thơm của cá lóc đồng, cái dai dai của bột lọc được cán bằng chiếc ống tre láng bóng, thái thành sợi và luộc ngay trên bếp.. điều cơ bản là giá cả hợp túi tiền bình dân, thậm chí còn quá rẻ. nghe nói mỗi bát chỉ vài hào, tuy với đồng phụ cấp ít ỏi vẫn đủ tự thưởng cho mỗi thằng vài ba bát, ăn cho đã thì thôi. Tiếng thơm của món đặc sản làm nước bọt của cánh lính trẻ chúng tôi ứa ra đầy miệng. Từ nơi đóng quân trong nhà dân quanh nhà thờ Phú Cam đi vào trong ấy khoảng 8 km, nhưng chẳng sao, không bắt được xe đò thì đi bộ, cũng chỉ 1 giờ 30 phút là đến nơi . Sáng chủ nhật hành quân khám phá. Ngày ấy quán bánh canh không nhiều như bây giờ. Cậu Kết (Bắc Thái) ở Đại đội thông tin làm liền một mạch 5 bát, ăn xong đứng dậy vỗ vỗ bụng:
- Chủ nhật sau vào tiếp.
Cô con gái bà chủ cười như chưa hề được cười, khi thanh toán, bà bảo con gái:
- Thôi, tính tiền chú ấy như các chú khác, mỗi người 3 bát.
Kết không chịu và nhất định trả đủ số tiền:
- Nếu mạ làm thế lần sau con không dám vào nữa đâu!

Chủ nhật sau Kết rủ mấy người nữa vào thật, Kết nửa đùa nửa thật:
- Từ nay ngày chủ nhật, mạ cho con làm chân bưng bê, con không lấy tiền công đâu, coi như giúp mạ.
Kết nói và làm thật, nhiều hôm không ai đi Kết vẫn đi, rồi điều gì đến đã đến, cô gái con bà chủ đem lòng yêu thương người con trai có tính tình vẻ như bổ bả nhưng chân thành và nhiệt tình. Điều kỳ lạ là từ ngày có sự xuất hiện của Kết, quán đông khách hơn. Mẹ con bà chủ có cảm giác như từ nay không thể thiếu chàng trai nói giọng Bắc này nữa .Tính cảm 2 người sâu nặng đến mức mà mấy cậu cùng đại đội hỏi:
- Mày đã làm chi cô ấy chưa?
- Bậy nào. Làm thế cô ấy coi tao là thằng cơ hội à? Tao phải làm thật đàng hoàng. Phải mời chúng mày về quê tao dự cưới. Chúng mày thử nghĩ xem: Khi nhiều thằng đi không có ngày về, còn tao không những về mà còn về hai. Cả làng phải lác mắt.
- Sao nhiều đêm mày về muộn thế ?
- Về muộn đâu phải ở lại để làm trò chim chuột.

Tất nhiên Kết đã không tránh khỏi vi phậm kỷ luât Quân đội và quy định của đơn vị. Không những một lần mà nhiều lần, lần nào Kết cũng chấp nhận mọi hình thức của đơn vị đưa ra. Tất cả đều như nước đổ lá môn, có lần sau khi nhận hình thức kỷ luật xong, Kết nói:
- Hình thức gì tôi vẫn chấp hành, có điều tôi vẫn yêu cô ấy, đi vào trong ấy tôi vẫn đi, còn đi thì còn khuyết điểm, mong các đồng chí một vừa hai phải thôi, lòng kiên nhẫn của tôi có hạn.

Những tưởng hình thức kỷ luật nặng hơn sẽ răn đe được Kết. Buổi kiểm điểm tối hôm ấy Đại đội trưởng Nựu cố ép mọi người biểu quyết hình thức kỷ luật: Cảnh cáo toàn đại đội. Đại đội trưởng ép mãi và rồi nhiều người giơ tay biểu quyết. Kết chẳng nói chẳng rằng, bỏ về nhà trọ nằm ngủ…
Sáng hôm sau, toàn Đại đội đang tập thể dục buổi sáng trong khuôn viên nhà thờ Phú Cam…

Nhà thờ Phú Cam - TP Huế
Pằng ! Pằng! Pằng…
Đại đội trưởng Nựu đổ gục ngay từ loạt đạn đầu tiên. Nhiều người nhanh chân chạy vào góc khuất các bức tường ẩn nấp. Khẩu AK tiếp tục nhả đạn, một số người nằm rạp xuống bãi cỏ.
Ngỡ đã tiêu diệt xong, Kết quay súng kết liễu đời mình. 
Rất may Kết là lính thông tin, chưa đánh nhau bao giờ, nên khi bắn Kết để súng nằm dọc, đạn chủ yếu bay lên trời. Khi thấy Kết đã đổ vật, khẩu AK đã văng ra, mọi người hoàn hồn, chạy đến đưa Nựu đi cấp cứu, vết thương quá nặng nên sau 3 ngày anh ấy đã qua đời. Một nữ tu sỹ đang quét lá khô gần đấy bị một viên đạn cắm vào đầu, chết ngay tại chỗ.

Sau rất nhiều thủ tục pháp lý, cuối cùng vì chưa có doanh trại nên quan tài Kết được quàn ngay hành lang nhà thờ. Trước lúc đồng đội đưa anh về nơi yên nghỉ, một chiếc xe đò dừng lại trước cổng nhà thờ Phú Cam, mấy người dìu người con gái trong trang phục áo dài màu tím, cô đặt lên quan tài bó hoa tươi rồi ngã vật xuống đất, mọi người dìu cô lên xe ra về. Tưởng chừng như mối tình gặp nhiều ngang trái đã chấm dứt tại đó. Nhưng không! Những lần đi tìm mộ bạn có dịp đi vào Huế, tôi dẫn mọi người vào Thuỷ Dương vừa thưởng thức món bánh canh cá lóc vừa chiêm ngưỡng chứng nhân của mối tình oan nghiệt. Cô gái ấy đã thay mẹ làm chủ, người bưng bê cũng là một cô gái, ngỡ là con cháu bà chủ. Nào ngờ ! Cô ấy đã không lấy chồng, ở vậy thờ người con trai mà cô suốt đời hối tiếc:
- Giá như ngày ấy tui có với anh ấy một đứa con.


Có thể nói, nhiều anh lính của Trung đoàn sau khi giải phóng Huế lấy vợ và định cư ở Cố đô phải cảm ơn Giáp và Kết. Cái chết của 2 người như những dũng sỹ cảm tử đánh vào thói đố kị, ích kỷ hẹp hòi của một số cán bộ chỉ huy. Người như Đại đội trưởng Nựu đã phải trả giá, những người khác cũng đã có cách nhìn thoáng hơn về tình yêu đôi lứa, hoặc không dám làm căng như đã từng hành xử đối với 2 người, không còn cấm đoán hoặc răn đe như trước đó.

Được về sống với dân như nắng hạn gặp mưa. Được dân tin yêu nên tình yêu của những anh lính giải phóng với các cô gái địa phương như hoa đua nở. Chỉ sau một thời gian rất ngắn, nhiều anh đã có nơi để mà hò hẹn, có chốn đi về. Trong số ấy đã có 8 cặp thành vợ thành chồng song cũng không ít cặp bởi nhiều lý do khác nhau đã thành dang dở. Trong những cặp nên duyên, không ít cặp sau đó được hưởng lộc của thân nhân bên vợ nguyên là sĩ quan Quân lực VNCH . Nổi bật nhất là cậu Chín - Nguyên trợ lý Ban quân lực, là cặp vợ chồng đầu tiên tại TP Huế xây khách sạn tư nhân vào  năm 1993 với 15 phòng đến nay vẫn chưa hề lạc hậu. Vợ chồng sinh được 2 gái 1 trai, cô gái cả làm dâu bên Mỹ, cô gái út định cư tại Na uy. Ngày mồng 4 tết vừa rồi cả 2 vợ chồng đã bay sang Mỹ theo bảo lãnh của con gái, khách sạn Huy Hoàng số 16 đường Nguyễn Trường Tộ, TP Huế giao cho con trai quản lý, điều hành. Trong những năm qua KS của Chín chẳng khác gì trạm giao liên của CCB, là nơi trung chuyển thông tin tới tất cả anh em CCB của Trung đoàn 6 đang sống rải rác trên 64 tỉnh thành. Là trạm nghỉ chân của nhiều gia đình đi tìm hài cốt người than và cũng không ít người mẹ đến đó để mong tìm được người cha cho con với nhiều lí do, cha nó đã cao chạy xa bay từ ngày con còn nằm trong bụng mẹ. 

Đầu xuân năm 2005 một chàng trai lịch lãm nói giọng Huế đến chúc mừng năm mới và nhờ Chín tìm gặp một người có tên là Ấn, chàng trai buồn rầu tâm sự:
- Mẹ cháu bảo: Nếu ba cháu không nói dối thì quê ông ấy ở tỉnh Quảng Ninh, ông ấy quen biết mẹ cháu khi đơn vị ông về Phú Vang quê cháu giúp dân làm thuỷ lợi. 29 năm nay mẹ cháu vẫn sống vậy nuôi cháu mà bà không sợ điều tiếng gì bởi ở quê ai cũng biết cháu là con ba Ấn. Mẹ cháu nghĩ ông ấy đã bạc tình vậy thì cũng chẳng cần tìm ông ấy nữa và nhất quyết không cho cháu đi tìm. Nhưng không hiểu sao bây giờ mẹ cháu lại cần ông đến thế !? Bà nhất thiết bắt cháu phải nhờ các bác tìm ông ấy cho bằng được.

Năm 2005, đoàn CCB tỉnh Quảng Ninh vào Huế dự kỷ niệm 30 năm giải phóng. Mấy người vẫn còn nhớ như chuyện vừa xẩy ra ngày hôm qua : Ấn là người hiền lành, hiền lành quá thành nhu nhược, khi biết Bê đã có thai, chính trị viên đại đội khuyên cậu làm đơn xin xuất ngũ để khỏi tai tiếng cho đơn vị và cậu ấy đã nghe theo. Về quê, lấy vợ và sinh được 4 con, quá vất vả với mưu sinh, nuôi các con ăn học chẳng có đồng nào dư giả . Hơn nữa càng ngày càng mặc cảm với tội lỗi bỏ rơi mẹ con Bê nên chưa một lần dám vào thăm lại “Chiến trường xưa”, cuộc sống bộn bề vất vả cứ thế trôi dần theo năm tháng.

Khi đã có được thông tin về Ấn, Chín quyết định báo cho chàng trai và chàng chẳng ngần ngại xin theo đoàn CCB Quảng Ninh về gặp Ba. Sau nhiều buổi dàn xếp tế nhị của anh em CCB, khi chàng trai xuất hiện tại nhà, Ấn đứng trơ như phỗng đá, vợ Ấn đẩy chồng về phía chàng trai:
- Ra mà nhận nó đi, nó có khác gì anh mấy chục năm trước khi anh mang ba lô trở về. 
Cuộc hội ngộ diễn ra quá bất ngờ nhưng vô cùng suôn sẻ bởi tấm lòng nhân hậu của người đàn bà thôn quê mà trời đã ban cho Ấn. Một số người khuyên chị nên đi cùng chồng vào thăm lại chiến trường xưa, chị ấy bảo:
- Từ nay đã có thằng con cả ở Huế thiếu gì cơ hội, lần này để anh ấy đi một mình cho tự nhiên .
Gặp lại chàng trai hiền như đất sau bao năm xa cách, Bê thều thào hỏi :
- Sao anh tệ bạc thế ?
- Anh xin lỗi mẹ con em, hồi ấy anh còn trẻ, nông nổi nghe theo lời xúi dục của vài người nên để mẹ con em phải khổ…
Chàng trai nói chen ngang :
- Không khổ đâu ba. Mẹ con con chỉ buồn thôi, buồn cho mẹ và buồn cả cho ba nữa.
Có lẽ đó là lời trách móc, hờn giận mà không có lời trách móc hờn giận nào sâu sắc hơn.
Đúng ! Chàng trai nói đúng. Về kinh tế thì mẹ con Bê không những không khổ mà còn sung túc đầy đủ bởi anh trai của Bê năm 1983 đã được đi theo di
ện HO, có công việc ổn định tại Mỹ, vẫn luôn quan tâm đến em gái và đứa cháu bị đối phương bỏ rơi. Chàng trai được sống trong vòng tay của người mẹ cam chịu và giàu lòng nhân ái nên sớm hấp thu bản tính của mẹ. Khi tiễn Ấn ra về, chàng bảo :
- Ba mang số tiền này về mua chiếc xe máy mà đi, số còn lại để các em ăn học, con còn phải ở lại chăm mẹ không biết lúc nào về ngoài ấy được .
Hai tháng sau lần gặp lại ấy, Bê mãi mãi ra đi bởi cơn bạo bệnh khi vừa 49 tuổi.

Chuyện tình thứ 4: Đứa con rơi của một người Anh hùng thời đổi mới- nguyên là CCB Trung đoàn 6.


“Đúng cậu ấy rồi ! Từ dáng người, quê quán cho đến cái tên đệm cũng không sai. Thằng Xanh đứng bên cậu ấy chắc nhiều người lầm tưởng đấy là 2 anh em. Thế mà mình cứ nghĩ cậu ta chết rồi, còn sống mà cậu không trở lại tìm hỏi xem mẹ con mình sống chết ra sao. Loại bạc nghĩa ấy quên đi cho khỏi bận lòng. Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, cậu ấy đâu biết đã cho mình thằng Xanh. Con gái khi đã trao thân cho ai thì nhớ người ấy suốt đời, bởi họ làm chuyện đó vì tình yêu, coi đó như một sự dâng hiến, một sự trao gửi, thậm chí chỉ là sự nhẹ dạ. Con trai thì khác, khi thoả mãn dục vọng họ dễ quên đi tất cả. Cậu ấy là người đáng trách đáng giận hay là người đáng để phải cảm ơn, nếu hôm ấy cậu ta liều lĩnh thế mà mình cương quyết chống cự thì làm gì có được thằng Xanh. Cứ theo thông lệ mà lấy một anh cộng sản nòi, biết đâu lại sinh ra một thằng vai u thịt bắp thì làm gì mình có ngày hôm nay !? Mà cũng tại mình nữa, nếu ngay sau ngày giải phóng Huế, 2 mẹ con dắt nhau lên TP tìm cậu ta biết đâu mọi sự đã đổi khác, xét cho cùng thì mình cũng có lỗi trong chuyện này”. 

Từ hôm bắt gặp hình ảnh Đinh Bá Hải lên nhận danh hiệu Anh hùng lao động thời đổi mới, mấy ngày liền chị Chuyên không ngủ được. Hình ảnh cậu ấy 38 năm trước đeo bám chị mọi lúc mọi nơi, nếu cứ thế này có lẽ chị phát cuồng lên mất, rồi cuối cùng chị cũng nghĩ ra được cách giải quyết xem ra chấp nhận được. Nghe nói bác Trần Lưu Chử, bác Khánh Lửa, bác Huỳnh An, nguyên là cán bộ Trung đoàn của thời kỳ ấy bây giờ nghỉ hưu tại Huế. Chị Chuyên quyết định tìm gặp bác Chử, là Trung đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy trận đánh xuống đồng bằng huyện nhà năm ấy. Khi hỏi đến cậu Hải ở tiểu đội trinh sát tiểu đoàn 1 thì bác Chử giới thiệu đến gặp cậu Chín chủ khách sạn Huy Hoàng 16 - Nguyễn Trường Tộ, Vừa nghe chị Chuyên đặt vấn đề, Chín nói ngay : 
- Chị tìm đúng địa chỉ rồi đấy, năm 2005 kỷ niệm 30 giải phóng thành phố nó có vào tham dự, nó là giám đốc công ty cấp nước của tỉnh nên công việc nhiều, vào dự xong là về ngay chẳng có thời gian ở lại.
Chị Chuyên giãi bày hết mọi chuyện và có nguyện vọng nhờ Chín cùng đi với mình tìm gặp Hải. Chín đồng ý và khi ra Vinh sẽ nhờ Hanh đi cùng. Sau khi nghe kế hoạch, tôi bảo:
- Những thằng thời cơ chế thị trường này mà vừa có miếng lại vừa có tiếng không phải là tay vừa đâu, nhỡ ra nó không nhận thì khổ thân bà ấy. Nếu cậu con trai giống thằng Hải như tạc thì để cậu con trai đi ra, những thằng như Hải nói với nó phải có tang chứng vật chứng mới hết đường chối cãi. Lần gặp này cứ để chị Chuyên ở nhà, chúng ta bắt Hải vào gặp chị ấy. 
Mặc dầu đang là Giám đốc điều hành của một Công ty liên doanh Việt - Nhật nhưng nhận được điện của mẹ, sau 3 ngày cậu con trai cùng Chín đã có mặt tại Vinh để đón tôi. Năm 2008 cậu ta sở hữu chiếc xe trị giá 4,5 tỷ thì cũng chẳng khác gì Cường “đô la” đi xe 21 tỷ bây giờ. Có lẽ cậu con trai cũng ý thức được với một người nhiều tiền, to quyền như ông ấy, phải thể hiện cho ông biết : “Tôi ra đây tìm ông không phải để xin xỏ ông điều gì”.
Cũng nhờ chỉ số IQ của 2 người nên sinh ra được cậu con trai tài giỏi mà cũng rất hiếu nghĩa với mẹ. Thương mẹ một mình tuổi già vất vả ốm đau bất thường, Xanh mấy lần đưa chị Chuyên vào S ài Gòn sống cùng nhưng dăm bữa nửa tháng chị lại đòi về quê : 
- Ở lại làm vướng bận con.
Chẳng mấy khó khăn để 3 chúng tôi tìm được cơ quan của Hải, Chín và tôi ngồi quán nước đối diện cổng công ty, tôi “nh
áy”: 
- Cháu vào cứ thế, cứ thế … 
Cháng trai gõ cửa.
- Mời vào. Chàng trai từ tốn mở cửa và lễ phép :
- Cháu xin chào Giám đốc.
Hải ngước mặt nhìn chàng trai muốn nói điều gì đó nhưng mi
ệng như có ai khoá lại chẳng nói nên lời, mắt nhìn như không chớp. 
Phải cố gắng lắm để hoàn thành vai diễn của mình nhưng Xanh đã bắt đầu run khi nhìn thấy khuôn mặt ấy, khuôn mặt người cha mà bao nhiêu năm Xanh nghĩ chẳng bao giờ có giây phút này. 
Câu tiếp theo lẽ ra Xanh phải nói: 
- Ông yên tâm đi, tôi đến đây không phải để xin việc làm đâu.
Không đủ bình tĩnh để nhớ lời “đạo diễn”, Xanh chạy đến ôm lấy Hải:
- Ba ! Con là con trai của ba đây ! Con ra đây để tìm ba !
- Có thật vậy không con ?!
Chàng trai nói giọng Huế, lại giống mình một thời nên Hải không th
chối từ.
Hải ôm Xanh và vỗ nhẹ vào vai :
- Mẹ con đâu, sao mẹ không đi cùng con ?
- Mẹ chưa ra được, Con đi cùng bác Chín, bác Hanh là người cùng đơn vị với ba.
Từ quán nước bên đường thấy Hải cầm tay con chạy ra cổng, biết mọi chuyện đã suôn sẻ 2 chúng tôi tiến đến gặp 2 bố con: 
- Trời đất ! Bác Chín ! Và đây là …
- Là Đinh H
ữu Hanh ! Trinh sát Trung đoàn. Vào đợt lính sinh viên !... 
Ban đầu chúng tôi cứ ngỡ Hải là thằng gian hung. Nhưng không. Hải vẫn giữ được bản chất anh lính chiến năm nào. Hải bàn giao công việc cho phó Gíam đ
ốc, sáng hôm sau cùng lên đường thăm lại “chiến trường xưa”, trên đường đi mặc dầu có con trai ngồi bên nhưng Hải chẳng giấu diếm điều gì…
Trận đánh xuống đồng bằng năm ấy, chị em ở Huyện Uỷ ngỡ như ngày giải phóng quê hương đến nơi. Chị Chuyên chủ động tìm đến Ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 để đặt đề vấn đề này vấn đề kia, nhiều hôm trời chạng vạng mới ra về, để bảo đảm an toàn cho chị, Ban Chỉ huy cho Hải là trinh sát Tiểu đoàn tháp tùng chị về hậu cứ Huyện uỷ, được nửa chặng đường, bất giác Hải tiến lên trước mặt chị quỳ xuống van xin, nhìn khuôn mặt Hải tím bầm như mặt thằng uống rượu giai đoạn cuối :
- Em xin chị ! Chị chiều em lần này, nay mai đánh xuống đồng bằng có chết tan thây em cũng cam lòng.
Cậu ta đã nói vậy, nhỡ mai kia cậu ấy chết chị sẽ ân hận thật, vả lại nơi rừng xanh heo hút này nếu cố tình cự tuyệt biết đâu cậu ấy làm liều, đến nước ấy tính mạng e cũng khó giữ nổi, thôi đành …
Chiến dịch đánh chiếm đồng bằng thất bại, toàn Trung đoàn rút lên rừng. Một thời gian sau cơ quan Huyện Uỷ lan truyền tin chị Chuyên có bầu, mà chị ấy có bầu thật. Thường vụ Huyện uỷ họp kiểm điểm. Có đại diện cấp trên về dự, yêu cầu chị khai rõ mấy vấn đề, nhưng chị cương quyết từ chối và đành chấp nhận hình thức kỷ luật : Cách chức Bí thư Huyện uỷ, khai trừ ra khỏi Đảng và chuyển công tác xuống Trung đội du kích huyện. Sinh con ra được 2 tháng, chị bế con trốn khỏi cứ về sống cùng bố mẹ tại quê. Để kỷ niệm những năm tháng gian khổ, đói khát , hà khắc sống chui lủi trong rừng, chị đặt tên cậu con trai là Xanh - Đinh Bá Xanh, cũng nhờ anh trai là thiếu tá sỹ quan QLVNCH nên những ngày chị trở về đồng bằng quan chức địa phương chẳng ai dám gây khó dễ với chị, có điều chị không gặp may như nhiều gia đình khác. Anh trai dốc toàn bộ tài sản gom góp được sau bao năm cầm súng để trang trải cho việc vượt biên bằng đường biển với chiếc thuyền nhỏ, đông người. Anh ra đi không tới được miền đất hứa mà bỏ xác ngoài biển khơi, bù lại chị có thằng Xanh nên cuộc sống vật chất cũng đầy đủ. 

Còn Hải, sau khi Giải phóng Huế cậu làm đơn xin xuất ngũ về ôn thi Đại học. Ra trường, đường công danh cứ thế mà lên đến chức Gíam đ
ốc Công ty Cấp nước tỉnh nhà. Với bản tính thông minh, dám nghĩ, dám làm. Là một trong những doanh nhân được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời đổi mới. Trong buổi lễ tuyên dương công trạng ấy, chị Chuyên đã nhận ra Đinh Bá Hải người liều lĩnh quì xin chị năm xưa. Nay con đã tìm được cha, chị có chết cũng thấy yên lòng.


Trước lúc bài viết này lên trang, tôi điện báo cho Hải, cậu ấy chậm rãi:
- Tôi biết sẽ có giây phút này, tôi vẫn thường xuyên, hồi hộp chờ đợi từng kỳ anh đăng, chuyện của đại tá Trần Lưu Chử, của trung tướng Trương Đình Thanh anh còn động đến, không sớm thì muộn chuyện của tôi anh sẽ không bỏ qua, nhưng xin anh đừng đề tên thật của tôi, mặc dầu không còn đương chức nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tế nhị mong anh lượng thứ.
- Mình sẽ nghe lời cậu, tên thật mình không tiết lộ nhưng chuyện của cậu thì CCB của Trung đoàn nhiều người biết, nhưng họ biết cũng chẳng sao đâu, thời nay không ai coi chuyện ấy nặng nề như cậu nghĩ, nếu điều tra lại có khi họ truy tặng danh hiệu anh hùng LLVT thời chống Mỹ cho cậu đấy. Tuy hơn cậu chỉ 6 tuổi nhưng chị ấy là Bí thư Huyện uỷ, lòng can đảm của cậu còn gấp mấy lần dũng sỹ diệt Mỹ. Hơn nữa trong hoàn cảnh ấy mà làm được chuyện đó mới thực CON NGƯỜI cậu ạ.
Cả hai đứa chúng tôi cùng cười vang trên máy điện thoại .



Chuyện tình của Trung đoàn 6 nếu viết hết sẽ có cuốn sách dày độ vài trăm trang. Chuyện không những xẩy ra sau ngày về đồng bằng được gần dân, mà ngay khi còn ở trên căn cứ trong rừng sâu, khi còn trên bom dưới đạn, khi còn khó khăn thiếu thốn mọi bề. Thiếu đến mức mà Chính uỷ Trung đoàn xuống bệnh xá thăm hỏi thương binh chỉ biếu cho mỗi người một thìa cà phê muối trắng, có anh gói vào giấy bạc của bao thuốc lá rồi để dành mỗi ngày nhâm nhi vài hạt và cũng chỉ được dăm ngày là hết. Trong hoàn cảnh ấy Trưởng phòng hậu cần lấy đó như một con bài câu nhử mấy cô gái non tơ từ đồng bằng lên rừng theo cách mạng. Ai là cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn đều thuộc câu hát chế từ bài hát truyền thống; “Anh Sản ơi nâng đít em lên…” (đất Ba lòng nâng bước ta đi…). Chả là ông ấy có nhiều thứ để tặng chị em. Khi thì cân lương khô, khi vài phong đường ép, thịt băm vụn hộp… Và không ít người trả ơn bằng những hiến dâng…Nhiều người bắt gặp cảnh ông ấy hành sự mọi lúc  mọi nơi, có lần ngay trên bờ khe chỗ có nhiều sỏi đá, có cô gái không chịu được nên kêu lên như thế. Cũng trong cảnh đói khát ấy, một anh quản lý bếp ăn Đại đội đã mồi chài được cô du kích Huyện đội Phú Lộc mà hậu quả để lại là 37 năm sau khi nghe chúng tôi thông báo buộc phải vào nhận con khi trên vai mang lon đại tá.
“ Anh Sản ơi ! Nếu anh đọc được chuyện này mong anh đừng nghĩ rằng em nói xấu anh, đó là đời thường, anh cán bộ nào ở vào vị trí của anh cũng hành xử như anh cả thôi, có điều khéo khen cho anh khi hết chiến tranh chẳng thấy cô nào mang con đi tìm anh” 
Kể lại những chuyện này không phải để mua vui độc giả mà tôi muốn nói một điều rằng : Cái chuyện ấy, chuyện đàn ông, đàn bà là chuyện muôn thưởlà bản năng mà tạo hóa sinh ra. Không một thế lực nào có thể cấm đoán ngăn cản. Khi có điều kiện là sinh sôi khi có cơ hội là chớp lấy. Ai cố tình cấm đoán là người đi ngược lại qui luật nhân sinh. Thực tế như mọi người đã biết: Cái chết của Kết, của Giáp, của Huyền…là những cái chết không đáng có. Đó là hậu quả của thói đố kị ích kỷ và hẹp hòi, của một tư duy sai trái, phản khoa học đã kéo dài bao năm tháng.
Cứ ngỡ hết bom đạn là hết chết chóc đau thương, nào ngờ lại thêm những cái chết oan nghiệt từ thói đố kỵ và lối tư duy sai trái ấy.

Tại buổi lễ kỷ niệm 40 năm giải phòng Huế, vị Đại tá Chính uỷ Sư đoàn 325 ôn lại diễn biễn của những ngày lịch sử trong đó có đoạn đơn vị ông đã kéo cờ lên cột cờ Phu Văn Lâu vào lúc 10 giờ ngày 25/3/1975. Nghe thế nên cậu Chín nguyên Trợ lý Quân lực ghé vào tai ông Huỳnh An: 
- Nó bảo đơn vị nó vào Huế và cắm cờ vào ngày 25/3 Thủ trưởng kìa, thủ trưởng phải có ý kiến gì đi chứ.
- Kệ mẹ nó. Muốn nói trời nói đất chi mặc nó, trong sử sách cũng đã ghi rõ : Trung đoàn Phú Xuân cắm cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu và giải phóng Huế Vào 6h30 phút ngày 26/3 năm 1975, nó nói gió bay đi ai nghe nó lúc này. 
Trước biển người rợp bóng cờ hoa của ngày lễ, ngồi bên đồng đội tôi  nhớ đến ngày ấy năm xưa: Đúng ngày 27/3, sau thời điểm vào Huế một ngày khi đang lúi húi chuẩn bị bữa cơm trưa cho Trung đoàn trưởng, nghe tiếng lao xao ngoài cổng một lúc sau thấy cậu Vệ binh chạy vào báo:
- Có mấy người xin vào gặp E trưởng, tôi vội chạy lên gác báo cho anh Thanh, anh ấy yêu cầu tôi xuống hỏi xem họ gặp có nguyện vọng gì, sau khi biết lý do tôi chạy lên báo cáo lại, anh ấy từ tốn :
- Em xuống mời họ vào phòng khách . 

Tôi biết mọi người đang rất bức xúc điều gì đó nên tươi cười pha trà, lấy thuốc, bánh kẹo mời họ. Trái lại mặt anh nào cũng đằng đằng sát khí . Anh Thanh xuất hiện nhìn lướt qua một lượt những vật phẩm bày trên bàn tỏ ý hài lòng:
- Mời các đồng chí ăn kẹo, uống nước…
Một người nói cắt ngang :
- Chúng tôi đến đây không phải để ăn kẹo.
- Thế có việc gì các đồng chí cứ nói. 
- Đề nghị ông trả lại công trạng cho đơn vị tôi.
- Đồng chí có thể nói rõ hơn.
- Khoảng gần 9 giờ sáng 25/3 chúng tôi đã vào Huế, trong khi đó các ông còn ở trên rừng, sáng 26 mới vào đến nơi. Các ông hạ lá cờ cuả chúng tôi xuống, kéo cờ của các ông lên rồi ngang nhiên tuyên bố đơn vị các ông giải phóng Huế, sao các ông có thể làm trò nẫng tay trên như thế được ?
Anh Thanh vẫn bình tĩnh và vui vẻ giải thích:
- Các đồng chí ăn kẹo, hút thuốc đi. Điều đó đơn giản thôi mà, chắc các đồng chí phóng viên không theo kịp diễn biến của cuộc chiến nên đưa tin như vậy. Ngày mai tôi báo lên Quân khu để điều chỉnh lại.
- Nói như ông thì nghe được còn nói như mấy thằng lính của ông chốt trên cầu An Hoà thì ai chấp nhận. Thôi ! Ta mang thằng Ái về chôn, bên ta chết một bên ông ấy chết một coi như hoà.
Tôi theo chân mấy anh lính ra xe, trên ghế sau chiếc xe Jeep là một người lính mặc quần áo Tô châu đầu quấn băng trắng máu vẫn còn vương đầy mặt. Trong buổi chiều giao ban hôm ấy được biết: Đó là một trong 2 người lính của 2 đơn vị tranh cãi nhau ngày giờ và đơn vị cắm cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu, bất hoà nên dẫn đến nổ súng bắn nhau. Hậu quả là mỗi bên một người tử vong.
Ngày hôm sau số người nhận là đã cắm cờ ngày 25/3 không thấy xuất hiện trên địa bàn TP Huế. Ngày giải phóng Huế được ghi nhận : 26/3/1975. Năm 2005 tại buổi gặp mặt CCB QK Trị Thiên Huế tổ chức tại hội trường QK4, tôi nhắc lại chuyện này và đề nghị trả lại sự thật cho lịch sử bởi không nên kéo dài chiến tranh thêm một ngày, thế nhưng sự việc vẫn chìm vào năm tháng. 

Sự việc hạ lá cờ nửa đỏ nửa xanh trên đỉnh Phu Văn Lâu xuống và kéo lá cờ của Trung đoàn 6 mang từ rừng xanh lên là có thật với lý do: Lá cờ kia nhỏ hơn lá cờ của E6 và được kéo lên lúc 6h30 phút sáng 26/3 khi đó phóng viên chưa có mặt. 10h sáng hôm đó số anh em tham gia kéo cờ được ăn mặc chỉnh tề hạ lá cờ ấy xuống rồi lại kéo lên để quay phim chụp ảnh. Ngay sau đó các phương tiện truyền thông củaTrung ương và địa phương đều đưa tin theo sự kiện đó.
Sau khi sự việc xẩy ra một số dư luận cho rằng: Việc lấy ngày 26/3 và đơn vị cắm cờ là Trung đoàn 6 là ý đồ của cấp trên nhằm tạo dựng thành tích cho Trung đoàn trưởng để xét phong tặng danh hiệu AHLLVT cho anh bởi anh ấy là con rể của tư lệnh QK Trị Thiên Huế. Tôi nghĩ đó là một suy luận vô căn cứ vì sau đó không lâu, đầu năm 1976 anh ấy được điều đi khỏi Trung đoàn để học văn hoá và chẳng ai đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng cho cá nhân anh, tập thể Trung đoàn cũng không được phong tặng danh hiệu Anh hùng lần thứ 2. 

Giá mà khi ấy các cán bộ quan chức và các phóng viên có trách nhiệm hơn để đưa tin đúng sự thật thì đâu mất thêm 2 người lính vào sáng 27/3. Những cái chết thật oan nghiệt.
Gần đây một số CCB cung cấp thông tin: Đơn vị cắm cờ trên Phu Văn Lâu ngày 25/3/75 là người của E 101 thuộc Sư đoàn 325 và ngay sau đó đơn vị này nhận lệnh theo đường QL1 tiến quân vào đánh chiếm Đà Nẵng. Đơn vị nào và ai là người kéo cờ đầu tiên lên đỉnh Phu Văn Lâu có thể cần một cuộc sưu tra của CCB các đơn vị từng tham gia mặt trận Thừa Thiên Huế tháng 3/1975


Tiếp quản thành phố với bao bộn bề công việc. Nào là giúp Ban quân quản giữ gìn an ninh trật tự xã hội, giúp dân ổn định cuộc sống, đào mương làm thuỷ lợi , khai phá ruộng đồng. Một công việc không kém phần quan trọng và nguy hiểm là trở lại hậu cứ trên rừng xanh thu gom nhiều thứ còn bỏ lại nhất là vũ khí trang thiết bị. Là người lính thời ấy ai cũng thuộc những câu khẩu hiệu được viết  ở mọi nơi; “ Súng là vợ - Đạn là con”, “ Yêu xe như con - Quý xăng như máu”.  Mà đúng thế thật. Đường Trường sơn quanh co  đèo dốc, bom đạn.  Mười chiếc xe ra đi may ra chỉ một chiếc tới đích. Mỗi cân gạo, mỗi viên đạn tới được tay chúng tôi phải đổi bằng máu xương của các chiến sĩ lái xe, của lính công binh và của chị em TNXP. Mỗi lít xăng có thể phải đổi bằng cả lít máu. Còn bao nhiêu súng đạn, lương thực thực phẩm,  thuốc me, quân nhu bỏ lại trên rừng sao đành, hơn nữa chiến tranh đâu đã kết thúc.

Những đoàn quân áo xanh  mũ tai bèo lại ngược nguồn trở lại nơi bếp Hoàng Cầm vẫn còn hơi ấm. Bao hiểm nguy đang rình rập những người lính chúng tôi…
Tôi nhận được điện của cậu Chín:
- Khi đi vào nếu xe còn chỗ thì đón chị Mến, mời chị vào dự cho cho khây khoả. Năm nay kỉ niệm 40 năm làm to lắm, Ban tổ chức đã mời tất cả CCB trên cả nước về dự.
Trong những lần đi tìm hài cốt đồng đội t
ôi cũng đã vài lần ghé thăm chị ấy. Gọi chị bởi chị ta là vợ anh Tráng - Trưởng ban tác chiến Trung đoàn, người được giao nhiệm vụ trưởng đoàn trở lại rừng thu dọn chiến trường hơn 40 năm về trước, chứ thực ra còn kém tôi vài tuổi. Không ai tin chị mới hơn 60 tuổi, dáng người nhỏ thó, mái tóc như Bạch Mao nữ. Chỉ một mình chị nên căn nhà tình nghĩa họ làm cho chị cũng thật khiêm tốn. Biết là đồng đội của chồng nhưng chẳng mấy khi gặp chị cười, lúc nào cũng nơm nớp như sợ ai bắt mất hồn. Anh em chúng tôi cạn lời khuyên giải, nể tình lắm chị mới nhận lời đi cùng. Trên đường vào Huế  để xoá đi bầu không khí trầm lắng, tôi bắt chuyện:
- Sao ngày ấy chị còn trẻ thế mà không đi lấy chồng, nhất là khi biết anh ấy đã không để lại cho chị một đứa con ?
- Lấy ai được nữa anh !? Khi hình ảnh anh ấy cứ đeo bám tôi suốt đời như vậy ?
Như để xua đi nỗi đắng cay của cuộc đời, v
ới giọng đều đều chị kể như  cho chính mình:
“ Em và anh Tráng cùng thôn, không biết ai mách bảo mà về phép đươc một ngày thấy anh đến nhà em chơi, đến ngày thứ 3 thì anh ấy hỏi: Nếu anh hỏi Mến làm vợ Mến có ưng không ? Em cũng chẳng phải vừa, trả lời luôn : Lấy thì lấy sợ gì.
Hai ngày sau thấy anh đưa người nhà cùng lễ vật đến nhà em đặt vấn đề, bố mẹ em thì khỏi phải nói, mừng như vớ được vàng. Các anh lạ gì thời ấy, người ta hay nói : “Nhất chân chì , nhì 4 túi” , anh ấy vừa được cả nhất lẫn nhì. Thực lòng  em cũng ưng lắm bởi ảnh vừa đẹp trai khoẻ mạnh lại hiền từ. Đám cưới gọn nhẹ nhưng mà vui. Cả làng ai cũng mừng cho vợ chồng em, cưới xong ở với nhau được một tuần thì anh ấy đi, nào ngờ…”
- Sau khi anh Tráng bị như thế chị và gia đình làm sao biết nhanh v
ậy ? Cậu Tân hỏi.
- Cách nhau mấy chục cây số dân đi chợ Đông Ba về họ kháo nhau. Nghe chuyện như có linh tính mách bảo  hơn nữa họ nói người ấy ở Gio Linh  lại vừa về cưới vợ. Đích thị là nhà em, ai vào đó nữa!?
Tiếp quản thành phố Huế, cách nhà sáu bảy chục cây số, thật chẳng có dịp nào thuận lợi hơn. Thượng uý Nguyễn Văn Tráng, Trưởng ban tác chiến Trung đoàn xin được nghỉ phép thăm nhà, dù hoạt động trên địa bàn quê hương nhưng đã 7 năm trời chưa có dịp về thăm cha mẹ, khi Tráng đề xuất nguyện vọng chẳng ai nỡ chối từ… Trả phép, Tráng mừng như thể được thăng quân hàm đại uý, rồi anh cũng tổ chức bữa liên hoan nho nhỏ mời anh em các phòng ban.
Như để thử thách ý chí của anh sau khi có vợ, người ta giao cho anh nhiệm vụ mới, anh vui vẻ lên đường. Có thể trời hoà bình đã làm anh mất cảnh giác. Nam Đông - Khe Tre là nơi khí hậu khắc nghiệt, mưa nắng bất thường.  Anh cho anh em mắc võng dọc 2 bờ khe ngủ cho thoáng mát. Trời đổ mưa, lũ về như xối, mọi người quờ quạng trong đêm r
ồi cuối cùng 3 người mất tích. Hai người lính được bà con dân tộc tìm thấy nơi thượng nguồn, riêng Tráng 4 ngày sau nổi lên hạ lưu sông Hương. Thi thể trương phình. Không chiếc quan nào v ừa  nên lại đành bỏ anh vào bao tử sỹ như những đồng đội trước đây.
Vào dự đám tang chồng. Hình ảnh anh được bó trong chiếc bao tử sỹ ấy ám ảnh chị không khi nào dứt ra được. Người chỉ được làm chồng chị vẻn vẹn có 7 ngày nhưng đã để chị mang nặng nỗi đau đơn côi suốt cả một đời./.


Nhận được thông báo của đồng chí vệ binh, mừng không có gì tả nổi, mừng bởi 2 lý do: Thứ nhất: Kế sách của mình đã thành công, buộc cô ấy phải sang thăm tôi trước, lý do thứ 2: Được gặp lại nhau sau hơn 3 năm xa cách.
Báo qua với người phụ trách rồi chạy như bay về nhà tắm giội qua loa chủ yếu cho trôi hết cát bám dính trên người, về phòng khoác bộ quần áo học viên chạy qua bãi tập nhờ Dương Danh Quý báo 1 suất cơm khách, chạy ra gần tới cổng làm ra vẻ bình tĩnh bước đi khoan thai. Cách cổng dăm mét, một cô gái đứng bên chiếc xe đạp Phượng hoàng xích hộp chăm chú theo dõi tôi. Không thể là cô ấy, 3 năm dẫu có thay đổi đến bao nhiêu cũng không thể là cô gái đang đứng bên chiếc xe kia.Tuy nhiên chiếc xe chắc là của cô ấy. Mẹ là người Việt gốc Hoa nên bà có ý thức làm kinh tế từ rất sớm, sau hoà bình lập lại một số nhà có tiền chạy mua ruộng đất của một số bần cố nông đem bán,  riêng bà tích góp được bao nhiêu lại mua vàng, với triết lý của bà : “Nhà nước họ cho mình được thì họ cũng có thể lấy lại của mình, chi bằng mua vàng cất cho chắc ăn”. Là gia đình khá giả nhất làng nên ông bà đã mua cho cô ấy chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp để mang ra trường ngay từ năm học thứ nhất.(cuối năm 1973)
Đang định hỏi đồng chí vệ binh c
ậu ấy đã nhanh miệng giới thiệu: 
- Người nhà của đồng chí đấy !
Một luồng ớn lạnh chạy dọc s
ống lưng . Nhưng rồi cũng kịp bình tĩnh lại “Có thể sợ điều gì bất trắc nên rủ thêm cô bạn cùng đi, chắc Hoà đang trốn đâu đó để làm tôi bất ngờ ! Đang nghĩ miên man thì cô gái cất tiếng hỏi:
- Anh có phải là anh Hanh không ạ ?
- Em là…
Cô ấy tiếp lời:
- Em là Giá, người Yên Thành, bạn của Hoà, Hoà đau và đang nằm viện nên không sang gặp anh được, nó nhờ em sang báo cho anh biết, nó muốn gặp anh, nếu có thể thì bây giờ anh theo em cùng sang trường thăm nó. Đồng thời ngày mai anh mang chiếc xe này về để ngày nghỉ sang với nó, để bên ấy chẳng mấy khi đi, lãng phí.
Tôi vẫn chưa tin đó là những lời nói thật.
- Thôi, đừng đùa anh nữa mà tội nghiệp, Hoà trốn đâu thì bảo nó ra đi.
- Em không đùa đâu ! Nếu anh ngại chi đó mà không đi được thì để em quay về, từ đây về trường em cũng phải mất tiếng rưỡi đấy.
Đồng chí vệ binh nói chen ngang: 
- Có thể chị ấy nói đúng đấy anh ạ. Từ nãy đến giờ chỉ thấy một mình chị ấy.
Sau khi biết Giá không đùa, tôi lại chạy như bay về doanh trại, nói sơ qua với Nguyễn Hồng Sơn lớp trưởng và quyết định đi cùng Giá, rất may Sơn là tay đã có vợ có con nên ăn ở biết điều: 
- Thế thì đi đi, nhớ 21h tối mai có mặt. Nếu nó khoẻ rồi thì chở luôn về đây cho bọn tao nhìn mặt.
Anh em trong lớp chưng hửng, cứ ngỡ là được gặp cô ấy, tuy chưa gặp mặt nhưng ai cũng ngưỡng mộ tình cảm của Hoà dành cho tôi bởi trước đó Dương Danh Quý đã quảng cáo hết lời .
Dọc đường Giá cho tôi  biết:
- Thỉnh thoảng nó cũng có đau, nhưng hễ đau là ra trạm xá của trường khám lấy thuốc về uống vài hôm là khỏi, sau khi giải phóng hơn tháng trời không nhận được thư anh, nó xuống nước ghê gớm, lần này 2 đầu gối nó sưng lên. Trạm xá giới thiệu đi viện tỉnh nhưng nó sợ đi như thế không ai chép bài cho nên vẫn nằm điều trị tại trạm xá nhà trường…
Nghe Giá tâm sự mà ngỡ như cô ấy đang kể tội mình. Có thể việc làm nông nổi của tôi đã làm cho sức khoẻ của Hoà sa sút và là cơ hội cho căn bệnh tai quái kia tái phát. Tôi thấy mình có lỗi thật sự.

Chuyện cô ấy bị đau khớp đã được nói trong vài bức thư, nhưng nghĩ cô ấy nói vậy nhằm thử lòng tôi, nào ngờ bệnh tình lại trầm trọng như vậy.
Về tới trường, t
ôi lao th ẳng xe ra trạm xá. Giá dẫn tôi vào phòng:
- Dậy đi này. Tao dẫn  giải “thủ phạm” về đây này. 
Cô ấy không mảy may phản xạ trước câu đùa vui rất đúng lúc ấy, vẫn nằm yên giả vờ ngủ, bởi trước đó vẫn nghe tiếng các bạn đến thăm chuyện trò râm ran. Mọi người biết ý đi ra ngoài, trong phòng chỉ còn tôi, Giá , Giá nói nhỏ vào tai: Anh Hanh sang đây ngồi này.
Hoà vẫn nằm yên, tôi nhẹ nhàng kéo ống quần lên quá gối. Đúng thật, hai đầu gối sưng đỏ, tôi nhẹ nhàng xoa tay đều đều…Bỗng Hoà vùng dậy ôm chầm lấy tôi và khóc như thể nhận được tin tôi tử trận:
- Sao trời đối xử nghiệt ngã với em như vậy anh ơi. Khớp đớp tim, rồi đây em bị thêm bệnh tim nữa thì làm sao mà sinh con được anh ơi. 
Cô ấy khóc như thể cả khu trạm xá này chỉ có hai người.
Tôi ôm Hoà vào lòng dỗ dành:
- Thôi đừng khóc nữa. Nếu nó đớp tim em thì còn có tim anh, nếu không sinh được thì chúng mình xin đứa con nuôi.
Nghe thế cô ấy bất ngờ đẩy tôi ngã đầu va vào thành giường:
- Lúc nào cũng đùa được. Cút đi .
- Cút thì cút !
Tôi đi ra:
- Mời các anh các chị vào phòng đi, bọn tôi hết giận nhau rồi.
Mặc cho nhiều người nói chen nhau nhưng tôi vẫn nghe đư
ợc một câu rất rõ:
- Lính có khác, tự nhiên như ruồi.
Chuyện lại râm ran, Chị Hường bác sĩ trạm trưởng thấy ồn ào chạy sang, sau khi biết chuyện, chị ấy góp vui: 
- Nhất Hoà rồi đấy, có người yêu từ chiến trường trở về, lo mà điều trị cho chóng khỏi, lính chiến trở về đừng lo chuyện không có con...
Sáng hôm sau tôi lấy xe đạp trở về trường gặp Hoàng Xuân Quang cùng tiểu đội, nhờ cậu ấy dẫn lên Thái Nguyên tìm gặp thầy lang người dân tộc Sán dìu, chữa bệnh khớp rất hiệu quả. Hai người chở nhau vượt qua chặng đường trên 50 km. 3h chiều chúng tôi tới nơi. Thoạt nhìn, tôi nghĩ ông không thể là người có tài chữa bệnh như cậu Quang đã kể. Trong túp lều sơ sài là một bà già đang quờ quạng trên những mẹt cành cây rừng băm nhỏ, nhìn quanh chẳng có chi đáng giá. Sau khi nghe tôi trình bày bà nhẹ nhàng:
- Không phải lấy nhiều như thế đâu, thuốc của ta nếu đúng bệnh thì chỉ cần một thang là khỏi,nếu bệnh nặng lắm thì tao cũng cho 3 thang thôi, nể tình mày ở Nghệ an ra, tao cho mày 3 thang, mỗi thang uống 3 ngày, đổ vào 8 bát nước, đun sôi 20 phút uống thay nước chè hàng ngày, uống hết, đổ nước vào đun lên c
thế mà uống. 
Khi thanh toán tiền, tôi lại càng ít hy vọng vào 3 thang thuốc ấy. Rẻ như cho, tiền 3 thang thuốc chưa đủ mua 2 kg gạo. Tôi gửi thêm tiền nhưng bà nhất quyết không nhận :
- Tao nhận thì tao giàu to lắm rồi.
Hai người lại quay tr
về, tới trường khoảng hơn 8h đêm. Vừa tới cổng trường tôi nói Quang:
- Cậu vào nói với Sơn như thế nào thì tuỳ, bây giờ t
ao sang bên ấy luôn, có khi vài ngày sau, có thể vài tuần sau, cũng có thể khi nào “cái Hoà” khoẻ tao mới về. Gặp được cô ấy rồi, tao cũng đang mong chúng nó kỷ luật để về lại trường Vinh.

Thật kì lạ, sau khi dùng hết 3 thang thuốc ấy, căn bệnh viêm khớp gối của Hoà mãi đến năm 2005 mới tái phát lại. Tôi lại tìm ra nhà Quang để nhờ cậu ấy một lần nữa. Quang bu
ồn rầu kể:
- Một năm sau khi lấy thuốc cho “cái Hoà” thì bà ấy mất, bà không có ai thân thích nên cũng chẳng truyền lại cho ai, bài thuốc quý thất truyền 
Về nhà kể chuyện cho Hoà nghe, tôi đùa:
- Bà lang này cũng chẳng khác chi thầy lang đã chữa khỏi bệnh cho HCT năm nào, chữa xong bệnh là biến mất khỏi trần gian.
Sau lần thử thách nghiệt ngã ấy tình yêu của chúng tôi càng bền chặt hơn. Học được một năm thì hệ đào tào cán bộ chính trị dài hạn chuyển qua Bắc Ninh thành lập trường SQCT. Lại càng thuận lợi , bởi 2 trường cách nhau chỉ 12km đường nhựa. Có lần để thử sức tôi đạp chỉ hết 45 phút.

Phòng ở của Hoà gồm 12 nữ sinh viên, ai cũng háo hức muốn gặp tôi, bởi ai cũng đã được đọc thư tôi viết cho cô ấy, ai cũng có cảm tình với tôi vì họ cho rằng: Mặc dù ở chiến trường xa xôi nhưng biết quan tâm đến người yêu bằng một nghĩa cử thiết thực mà chưa thấy người lính chiến nào làm được. Chả là cuối năm 1974 nhân dịp anh Kỷ- Ban quân y, quê thị xã Bắc Giang về phép tôi đã nhờ anh ấy mang về gửi tặng Hoà chiếc Radio hiệu Sony nhờ du kích mua từ đồng bằng. Với lời đề tặng: “Mười giờ đêm, em hãy mở chương trình Đọc chuyện đêm khuya cho cả nhà nghe, biết đâu được gặp anh trong đó”. 
Trong một lần lên thăm Hoà, sau khi cơm nước xong, Cô Bích (mọi người hay gọi Bích Tồ) nói v
ới cô Chín:
- Mày sang phòng nam mượn cây ghi ta về đây, yêu cầu anh Hanh đàn hát cho mọi người nghe, cái Hoà nó bảo anh vừa hát vừa đàn ghita hay lắm.

Rồi Chín mang đàn về thật, tôi đứng trước tình huống khó xử: Nếu từ chối mọi người lại nghĩ Hoà tô hồng người yêu quá đáng, nếu hát có người lại nghĩ: Tay kia khoe mẽ. 
Tôi đưa mắt nhìn Hoà ng
ầm xin chỉ thị:
- Hát cho em nghe răng thì hát cho mọi người nghe rứa.
Tôi chẳng nói chẳng rằng, khi ngón tay vừa lướt nhẹ trên 6 sợi dây buông Mì- là- rê- son- xi- mí . cả căn phòng lặng phắc. Tiếng đàn quyện cùng lời ca tôi vẫn hát suông trên đường hành quân khi đi vào chi
ến dịch : “Con biết bây giờ mẹ chờ em trông…”, tôi biết làm cho lời bài hát nuột nà và não nề thêm. Mặc dầu mắt lim dim nhưng vẫn cảm nhận được dăm ba người đã sụt sùi, có thể nói lần đầu tiên các cô ấy được nghe một bài như vậy, lại là tiếng hát của một người vừa bước ra từ cuộc chiến. Các cô ấy khóc là phải thôi. Nhiều sinh viên nam thấy thế cũng ghé vào. Giọng một cô gái nghe rất rõ:
- Mấy chàng trai lớp ta nhìn cái Hoà nuốt nước bọt là phải thôi.
Rồi cứ thế, “Bữa thì em tới, bữa anh sang”. Chủ nhật nào tôi không bận đi Hà nội học thêm nhạc lý và học vẽ truyền thần là hai chúng tôi lại được gặp nhau. Cũng nhiều hôm Hoà nghỉ tại nhà khách qua đêm, gần sáng tôi vẫn lén ra ngủ cùng cô ấy, nàng động viên:
- “Con Cú vọ” của em đã vượt qua được một lần, thôi hãy chịu khó vượt qua lần này nữa đi, nếu không em có thai thì làm sao ra trường đúng kỳ hạn được.
Hơn nữa ngày ấy đâu đã biết nhiều biện pháp tránh thai như bây giờ, nhỡ có thai trước lúc cưới sẽ mất uy trước bè bạn và chúng tôi đã kìm ch
ế được lòng mình.
Niềm vui đến với tôi thật bất ngờ, cuối năm học thứ tư cô ấy đề nghị:
- Tết này về tổ chức cưới thôi anh ạ, nếu em chưa có chồng, nhà trường điều em đi qui hoạch các tỉnh Miền Nam mất. Chiến tranh đã khi
ến hai đ ứa m ình ở hai đ ầu xa th ẳm, nay hoà bình lại phải cách xa biết khi nào thành vợ chồng được.
Chả là năm ấy Bộ GD- ĐT có chủ trương cho sinh viên năm thứ tư của trường đặc cách (không phải thi tốt nghiệp) để tăng cường cán bộ cho các tỉnh phía Nam.
Khi đựơc biết dịp tết về cưới vợ, tiêu chuẩn tết của mọi học viên đều nhường cho tôi: 6 tút thuốc lá Nhị Thanh, 5kg kẹo, 2kg chè Thái. Một  đám cưới thật đầy đủ.Tối 27 tết mới về tới nhà, nên hai gia đình chúng tôi quyết định tổ chức vào chiều mồng 2 tết Mậu Ngọ (1978). Thế là sau 8 năm kể từ ngày tôi viết lá thư đầu tiên tỏ tình cùng cô ấy chúng tôi chính thức được bên nhau trọn vẹn. Mở đầu chương trình văn nghệ, chú rể hát: “Đôi bồ câu đang bay về đâu…” một việc chưa có tiền lệ và đến nay vẫn chưa thấy ai làm như thế.  Sáng mồng 4 tết phải ra trường, trước lúc đi mẹ của Hoà bắt mang theo 2 con bồ câu cùng lời dặn con gái: 
- Mang ra bồi dữơng cho nó !


Tối mồng 4 tết có mặt tại nhà ông cậu, ông là cán bộ phòng nghiên cứu của Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng đông, cậu tặng vợ chồng t ôi chiếc ruột phích. Ra chợ Đồng xuân mua chiếc vỏ tre đan lồng vào, Hoà hí hửng lắm. Cô ấy cứ đòi ôm vào người cho an toàn song tôi cương quyết buộc dọc khung xe để 2 tay rảnh rang ôm eo cho tình cảm. Ngày mới vào Huế thấy mấy cô nữ sinh ôm eo mấy chàng trai thong dong trên cầu Tràng tiền trông thèm đến nao lòng. Điều sâu xa hơn là nếu cô ấy có thai thì luôn được an toàn .Trưa mồng 5 tới trường . Tối hôm ấy để chứng tỏ là người con gái biết thương chồng, ăn cơm xong mang bồ câu ra làm thịt, vừa làm vừa hát trông thật đáng yêu, chú bồ câu non được nàng chặt ra từng miếng nhỏ, bỏ vào Phích cùng ít gạo đổ nước sôi, đậy nắp, như vừa hoàn thành một việc trọng đại. Khoảng 2 giờ sáng nàng đánh thức tôi dậy, tiếng nói thì thầm bởi phòng bên của nhà khách cũng có người đang ngủ:
- Dậy ăn cháo !
Nhìn trên bàn chỉ một chiếc bát to, tôi quay sang v:
- Ăn một mình anh không ăn đâu.
Nàng lại nói nhỏ vào tai tôi:
- Em ăn nó phí đi, cố gắng ăn hết rồi sinh cho em một thằng cu.
Cháo được đổ ra. Trời đất ! Gạo còn nguyên hạt, thịt bồ câu còn đỏ hỏn. Mở ra kiểm tra thì than ôi núm chân không của chiếc ruột phích đã gãy tự lúc nào. Hai vợ chồng ôm nhau cười qu ên c ả gi ữa đêm có hàng xóm đang ngủ. Mấy người ngủ chung nhà khách chạy qua xem chuyện gì xẩy ra. Tôi ngượng chín mặt, Hoà phải giải thích để mọi người khỏi hiểu lầm. Một kỷ niệm không thể phai mờ của thời bao cấp. Viết xong đoạn này tôi đọc cho Hoà nghe xem còn sót chi tiết gì để bổ sung, nghe xong Hoà lại ôm tôi cười như khi đọc chuyện của Minh Lê:
- Ông nhớ dai như đỉa !


Hoà tính toán như thần, sau khi cưới cô ấy được giữ lại học thêm một năm nữa để làm giảng viên của trường. Cậu con trai nằm trong bụng mẹ đúng 9 tháng và ngày 26/10/78  ch úng t ôi vui mừng đón cháu chào đời với cân nặng 3,6 kí. Sau khi sinh 10 ngày mẹ ch áu phải trùm khăn lên đầu vào phòng thi tốt nghiệp, 3 môn thi: một 9, hai 8. Lúc này tôi đã ra trường được một tháng. Có hơn 3 năm ở chiến trường nên tôi được ưu tiên không phải đi xa mà được về quân khu 4 - Sư đoàn 441 đóng trên địa bàn xã Phú Lộc, Can lộc, Hà tĩnh. Hoà trả quyết định ở lại trường xin về Nghệ Tĩnh công tác. Là gái một con lại là hoa khôi của trường nên nhanh chóng lọt vào mắt của vài con yêu râu xanh, nếu chấp nhận đánh đổi là nàng sẽ được phân công một ví trí ngon lành ở ngay TP Vinh. Nàng quyết định xin vào công tác tại Trường trung cấp NN2 của tỉnh đóng trên địa bàn xã Thiên lộc cách nơi tôi đóng quân khoảng 15km. Về trường lại không tránh khỏi ánh mắt thèm thuồng của vài anh Đảng viên được phân công “dìu dắt” nàng vào Đảng, nàng lại quyết định xin rút lại tập hồ sơ đối tượng Đảng của trường ĐH. 


Bởi nhiều áp lực nên tôi có ý định kết thúc những trang “Ký ức một thời bi tráng” của mình bằng một phần kết nho nhỏ. Nhưng nhiều người nguyên là chiến sỹ một thời dưới quyền tôi, tại Trung tâm huấn luyện 441-QK4, được đưa sang chiến trường Campuchia ,may mắn trở về hiện đang sống trên địa bàn một số địa phương điện thoại hỏi:
- Thủ trưởng ơi ! Ngày còn làm lính, thủ trưởng viết hay như thế, còn những ngày thủ trưởng ném bọn em sang làm bia thịt cho Pônpot , thủ trưởng có định viết hay không ?
Nhận được những cú điện như vậy, lòng cảm thấy mình chẳng khác chi kẻ phạm trọng tội, lẩn trốn mấy chục năm, nay đọc được lệnh truy nã đặc biệt. Nếu không viết, có nghĩa là cố tình chối bỏ trách nhiệm, cố tình quên đi một thời sôi động cũng chẳng khác chi chiến trường năm nào, thậm chí sự hy sinh, mất mát của một lớp thanh niên trai tráng còn đau thương bội phần. Những lời nhắc ấy như thức tỉnh lương tâm khiến tôi không thể dừng bút.
Tôi và Tân thỉnh thoảng vẫn được Hội CCB Trung đoàn 6 ở nhiều địa phương mời dự các cuộc gặp mặt nhân dịp này nọ. Nhiều CCB, chỉ vào mặt tôi mà rằng: 
- Lính Trung đoàn ta chết nhiều một phần có bàn tay của vợ mày đấy.
Tôi ngơ ngác chưa hiểu tại sao anh em lại kết tội cô ấy như vậy !?
Cậu Tân phụ hoạ thêm:
- Đúng đấy ! Theo cách nói của Chế Lan Viên khi ông ấy nhận trách nhiệm về cái chết của gần 2 ngàn cán bộ, chiến sỹ trong cuộc tổng tiến công Mậu thân1968, khi Trung đoàn 6 đánh vào TP Huế, đại ý là : “ Hai ngàn người ra đi- Ba mươi người sống sót- Trách nhiệm thuộc về ai ?- Trách nhiệm thuộc về tôi- Bởi những câu thơ tôi viết- Thúc giục họ lên đường”. Nếu hiểu theo cách đó thì vợ mày có tội thật.
Nhiều đêm nằm nghĩ lại, biết anh em đùa nhưng lại thấy như họ nói rất thật. Thư cô ấy gửi vào mà lại rất đều đặn, cứ chờ đến thứ 7 là viết, mỗi tháng 4 thư, có tháng nhiều hơn. Trung đoàn 6 là bộ đội trực thuộc tỉnh Thừa Thiên hoạt động quanh vùng Tây Nam Huế, hòm thư không thay đổi nên hầu như chẳng thất lạc thư nào. Sau khi Chính trị viên đại đội kiểm duyệt, những bức thư mang tính động viên khích lệ như vậy người ta cho chuyền nhau đọc, có những bức thư đã nhoè nét chữ khi đến tay tôi.

Thư của nàng như những liều thuốc bổ, liều thuốc kích hoạt thêm lòng dũng cảm của người lính. Nhiều đêm nằm cùng bộ binh họ lại yêu cầu tôi mang thư cô ấy ra đọc, cũng nhờ những bức thư ấy mà tôi trở thành người nổi tiếng khắp Trung đoàn, nổi tiếng bởi có cô người yêu là sinh viên viết thư mùi mẫm, lời lẽ động viên không riêng gì tôi mà bất cứ ai được đọc , được nghe đều có chung cảm nhận như khích lệ chính mình. Có người coi như thư của người yêu họ vậy, cũng không ít người tranh thủ lúc bình yên viết thư gửi cô ấy. Rất nhiều người sau đêm được đọc , được nghe, trận đánh tiếp theo họ đã mãi mãi không về. Nhiều CCB vẫn nói: Nếu giữ được tất cả các bức thư ấy để bây giờ gửi cho nhà XB Quân đội, khi tác phẩm được lưu hành chắc cũng tạo nên cơn sốt có khi còn hơn cả Nhật  ký Đặng Thuỳ Trâm, hay Nguyễn Văn Thạc. Rất không may khi vợ con còn tá túc trong dãy nhà tập thể của trường Nông lâm tỉnh, cơn bão năm 1982 làm sập nhà, những tập thư được cô ấy cất giữ dầm mình trong mưa bão đã nát vụn và không thể lưu giữ lại được.

Nhiều người ngạc nhiên về tấm lòng nhiệt huyết của cô ấy được thể hiện qua những bức thư. Nhưng tôi thì không, nếu những năm tháng đó không nghe lời tôi, có khi xương đã phơi trên những nẻo đường Trường sơn, hoặc nếu có sống trở về chắc hộ khẩu bây giờ thuộc Làng Lòi - Yên thành, nơi dành cho những nữ TNXP không chồng được quyền làm mẹ. Chả là thi vào ĐH- Y Hà nội thiếu mất nửa điểm, mơ ước trở thành bác sỹ không thành nên quyết định đi TNXP để được vào chiến trường cùng tôi, biết chuyện, tôi đã khuyên can và cũng thật đúng lúc, giấy báo nhập học khoa quản lý kinh tế của trường ĐHNN gửi về thế là tránh được một hậu hoạ khôn lường. 
Có thể nói : Tình yêu của cô ấy đã quyết định sự nghiệp của vợ chồng tôi.
Tiếp quản Huế được gần 3 tháng, Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh nói với tôi:
- Có 2 suất đào tạo dài hạn cán bộ chính trị quân đội, nếu em thích thì anh cho ra Bắc đi học.
Tôi và Dương Danh Quý (khoa văn) là 2 người được chọn. Dù ngán đời quân ngũ như ngán “Cơm nếp choẹt” nhưng khi biết nơi ra nhập học là thị trấn Nỉ - Đa Phúc gần Việt Yên - Hà Bắc nơi người yêu đang học thì như mở cờ trong bụng. Trong khi số cán bộ , giảng viên, sinh viên của trường ĐH Vinh sống sót chưa có chủ trương cho trở về trường, nên tôi bàn với Dương Danh Quý cứ nhận lời đi học rồi tuỳ cơ ứng biến để tìm cách trở về trường Vinh. Cơ hội được gặp người yêu sau hơn 3 năm xa cách sẽ thành hiện thực, Tôi không thể hình dung cô ấy sẽ vui đến mức nào. Bởi tối 26/3/75 sau khi tham gia biểu diễn văn nghệ chào mừng ngày thành lập đoàn TNCSHCM do Đoàn trường tổ chức là lúc cô ấy nhận được tin: TP Huế đã được giải phóng . 

Để thử thách lòng thuỷ chung của cô ấy, khi hay tin quân ta đã giải phóng TP Huế được truyền đi là lúc tôi ngưng hẳn viết thư về như muốn để cô ấy ngỡ như mình đã chết và chờ xem … Hơn một tháng sau anh Thái trưởng ban trinh sát trung đoàn gặp tôi đặt bức thư của Viên Bạch Ngọc gửi cho anh ấy trước mặt tôi và nói: - Đọc đi ! "Anh Thái kính mến ! Anh Hanh có mệnh hệ gì thì anh cứ nói cho em biết, em sẽ chịu đựng được mà...".Vừa đọc xong ngẩng mặt nhìn anh Thái, chưa kịp thanh minh, anh ấy hỏi:
- Mày định lấy cô gái em viên thiếu uý thật sao ?
- Làm gì có chuyện ấy !
- Sao cả tháng nay không viết thư cho nó.
- Em đùa một chút thôi !
- Sao có kiểu đùa nhẫn tâm như thế được !
Anh ấy bắt tôi ngồi viết thư cho H. để anh mang đi gửi. 

Chuyện được ra Bắc tôi cũng không hề báo trước. Nhập học được một tuần tôi viết mấy dòng : ”Hoà mến ! Anh đã ra Bắc đi học, đang ở Nỉ, cách chỗ em mười cây số đường chim bay. Nếu chủ nhật tuần sau không bận tăng gia thì anh sẽ cuốc bộ sang gặp em, chỉ cần nhìn thấy em rồi quay về cũng được. Nhớ em phát điên lên rồi đây này ! Ra đây bận học và công việc tối ngày, ban đêm sinh hoạt, rồi thay nhau gác chẳng có thời gian để viết thư dài đâu. Nhớ em nhiều lắm, tạm biệt !” . Thư không dài lê thê kể hết chuyện đồng quang sang đồng rậm như những lá thư viết từ chiến trường. Lá thư thật ngắn nhằm làm cho cô ấy lòng dạ nôn nao. Tuy nhiên nội dung trong bức thư ấy là có thật. Là lính trinh sát chiến trường đi nắm địch thường xuyên, ra khỏi hậu cứ là như hổ được thả về rừng, sống độc lập là chủ yếu, đằng này ra đây học họ quản lý chặt chẽ đến nghiệt ngã chẳng khác chi con chó đực đến tuổi trưởng thành bị xích nhốt. Nhiều người muốn đi Hà nội xem thủ đô như thế nào, ai đi phải đăng ký từ thứ 6: Đi gặp ai ? Số nhà ? Phố nào ? Ai chưa có vợ chỉ được đi trong ngày…Ra Bắc được hơn một tuần muốn sang gặp H. nhưng xe đạp không có, đi ô tô thì phải xuống Cầu Chui vòng lên lại chỉ được đi trong ngày nên đành bó tay.

Hơn 3 năm xa cách, để giữ Viên Bạch Ngọc luôn trong sáng và luôn thuộc về mình đó là điều không đơn giản. Sống trong môi trường lắm chàng sinh viên đẹp trai, học giỏi, con nhà khá giả, thậm chí cả những giảng viên chưa vợ, chắc chắn sẽ không thiếu người theo đuổi cô ấy. Tuy có lợi thế về “Cường độ” nhưng lại thiếu tiêu chí “Nhất cự ly” nên phải dùng “khổ nhục kế” để mong chiếm được lòng thương và giữ được cô ấy cho đến ngày về. Hầu như thư nào gửi về cũng đều khuyên “Anh xin em đừng yêu., đừng chờ đợi nữa, ngày anh về có khi mắt không còn, chân mất một…Em có đủ can đảm để chăm sóc một thương binh nặng hay không ? Thậm chí anh không còn khả năng để sinh cho em một mụn con nào” vv… Tóm lại tôi luôn vẽ ra một viễn cảnh chẳng sáng sủa gì. Bởi thế nên mở đầu các bức thư chỉ đề: Hoà nhớ ! Hoà mến ! Thậm chí chỉ mỗi chữ Hoà ! Cuối cùng kế sách ấy đã thành công.
Sau một tuần kể từ ngày viết bức thư " chiến thuật" ấy. Chiều thứ 7 trong giờ tập nhảy cao đồng chí gác cổng chạy vào báo tin:
- Đồng chí Hanh ra cổng gặp người nhà gặp.
Đó là chiều 21 tháng 8 năm 1975. Tôi hiểu rằng ở đây tôi có ai là “người nhà” ngoài cô ấy.


Chồng sỹ quan QĐ- Vợ giáo viên một trường chuyên nghiệp, 2 con trai sinh cách nhau 3 năm, đơn vị đóng quân cách vợ con chỉ một giờ đi xe đạp. Những tưởng cuộc sống gia đình bé nhỏ ấy từ đây sẽ xuôi chèo mát mái. Nào ngờ bao thử thách, bao cám giỗ, bao khó khăn đang chờ phía trước.

Bốn người cùng lớp được phân về QK4, Trương Quang Ân, được về quê nhận nhiệm vụ tại Trung tâm HL 442 Thanh hoá. Tôi , Phan Ngọc Sơn và Nguyễn Văn Thành về Sư đoàn 441. Sơn và Thành được đưa xuống Tiểu đoàn. Chẳng bao lâu sau trong một lần giám sát ném lựu đạn thật, cậu lính mới mất bình tĩnh, ném chệch về hướng đài chỉ huy, rất may chỉ một mình Sơn bị mảnh lựu đạn găm vào mắt. Hai mắt còn một, Sơn chuyển ngành. Một năm sau, Thành đập bệnh và xin phục viên cho bằng được. Về sư đoàn 442 được một thời gian, Trương Quang Ân cũng theo cách của Thành, cũng Phục viên. Sau này gặp lại, Thành tâm sự:
- Ở lại tao sợ chúng nó ném sang Campuchia hay ra biên giới phía Bắc, chi bằng về cày ruộng , có khổ một chút nhưng chắc cái gáo.
Ra thế ! Còn tôi, do nét chữ chân phương nên Trưởng ban cán bộ giữ lại để viết danh sách trích ngang của sỹ quan toàn sư đoàn. Sau 7 ngày mười bản danh sách tôi đã hoàn thành. Cứ viết đi viết lại 10 lần như vậy và thuộc hết sơ yếu lý lịch của 625 sỹ quan, thế là họ quyết định giữ tôi lại Ban cán bộ và giao nhiệm vụ: Trợ lý chiêu sinh. Đồng thời khai thác triệt để “tủ hồ sơ sống“. Là người trẻ nhất trong Ban nên ngoài công việc chuyên môn tôi chẳng khác chi một tay điếu đóm. Người sai việc này, người nhờ việc nọ. Ông Thược trưởng ban, người Thạch tiến - Thạch Hà, khó tính còn hơn cả mế chồng, lại không may gặp phải thời ông tướng Lê Quang Hoà, bí thư kiêm tư lệnh QK với câu nói cửa miệng: “Sản xuất lấy lương thực mà ăn, làm lấy nhà mà ở, trồng lấy thuốc mà chữa bệnh”, ông nói và ông làm thật: Để lấy thành tích ông trả lại một phần tiêu chuẩn lương thực, thuốc men cho bộ QP, bù lại ông giao cho các đơn vị tự đảm bảo bữa ăn được vài lưng cơm hoặc bobo độn thêm sắn xào, nhưng từ chỉ huy đến lính ai cũng mong đến bữa. Có hôm tiểu đoàn phó Đại (Cẩm Quang - Cẩm xuyên) đi kiểm tra gác đêm bắt được cậu Thọ lính tân binh phá cửa nhà bếp vào trộm  bobo ăn cho đỡ đói. Anh ấy cho xúc một chậu nhôm đủ tiêu chuẩn 6 người ăn và bảo :
- Nếu mày ăn hết trong thời gian 25 phút  tao sẽ tha cho.
Thọ bình thản ngồi ăn dưới sự chứng kiến của dăm ba chục lính và cán bộ khung vây quanh, sau gần 20 phút Thọ đứng dậy vỗ bụng; 
- Em xin phép thủ trưởng về đi ngủ .
Sợ chết vì bội thực nên Đại cho lính đưa xuống khe ngâm nước.

Hầu như chủ nhật nào cũng phải cuốc đất đồi trồng sắn, ở cách vợ con 15km nhưng 2 tháng mới được  về một lần. Rất may trong ban có anh Tân phó ban là người Nam Cát - cùng quê, tôi viện lý do:
- Cứ để em trên này thì làm sao có trần mà thăng quân hàm cho em được ? 
Sau nhiều lần đề nghị, cuối cùng nguyện vọng của tôi cũng được chấp nhận. Những tưởng về đơn vị là môi trường để phát huy năng lực, nào ngờ một thời gian sau khẩu súng ngắn được trang bị không cánh mà bay. Mất sung, lĩnh 2,3 năm tù là điều khó tránh khỏi. Lúc này bản lĩnh của người trinh sát chiến trường được phát huy. Tôi đem chuyện thổ lộ cùng Tiểu đoàn trưởng, anh ấy cũng người họ Đinh, Đinh Văn Đơm, dẫu sao máu loãng còn hơn nước lã. Tôi nghĩ vậy ! Vả lại chuyện mất súng nếu để lộ ra sẽ ảnh hưởng đến thành tích của Tiểu đoàn. Sau khi nghe trình bày dự kiến các phương án có thể xẩy ra và biện pháp tiến hành khắc phục hậu quả, anh nói như  thách thức: - Cậu thử xem !
- Anh ủng hộ, em sẽ làm được. Tôi quả quyết .
Mười hai ngày sau, Trưởng ban quân pháp sư đoàn dẫn đầu đoàn thanh tra xuống làm việc với Ban chỉ huy Tiểu đoàn về việc đồng chí Hanh có đơn tố giác mất súng ngắn.
Khi đối chiếu số súng của tôi đang mang và số trong sổ đăng ký. Hai số trùng nhau. Trong sổ không hề có vết tẩy xoá. Đồng chí tiểu đoàn trưởng tươi cười nói với mọi người:
- Cậu nào đó tố cáo vu vơ ấy mà.

Chả trách gì mà ngày 4/3 vừa rồi họ Đinh làm lễ ra mắt Ban liên lạc Họ Đinh tỉnh Nghệ An. Đúng là “ giọt máu đào hơn ao nước lã”. Nếu anh ấy không có chút tình riêng, là người nhỏ nhen đố kị, giậu đổ bìm leo, không tạo mọi điều kiện thì tôi đâu đã nhanh chóng thực hiện thành công một phi vụ tày đình như thế được. Khi anh nghỉ hưu, tôi  được lựa chọn trong số 3 Tiểu đoàn phó và được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng thay anh vào ngày 19/4/1983.
Hàm ơn bố con người chiến sỹ đã giúp tôi thoát nạn, chúng tôi đã quyết định để cậu con trai ông ấy ở lại nhưng cậu ta nhất quyết đi cùng Bạn. Tôi đạp xe về Vinh xin ý kiến ông từ tốn:
- Nó thích thì để nó đi chú ạ, hơn nữa Khe Lang như địa ngục trần gian, tôi cũng chẳng muốn nó ở lại trong ấy.
Không còn cách nào khác tôi đành để em ra đi. Cậu vui vẻ lên đường sang Campuchia và ở luôn bên ấy không về. Đến nay vẫn chưa tìm được mộ.

Chuyên mất súng vợ tôi không muốn cho viết ra đây, tôi bảo:
- Anh có kể chuyện mất súng đâu em, đây như lời khấn niệm, như nén hương thơm kính dâng hương linh ông ấy. Em thử nghĩ xem, một người không là đồng chí, không là đồng đội, không thân thích, không máu mủ ruột rà, một người trong giới giang hồ mà bất chấp hiểm nguy để giúp anh thoát khỏi một án kỷ luật. Nếu không có con người ấy chắc chắn anh sẽ thành một lão nông tri điền không hơn không kém, nếu vậy cuộc sống của chúng mình đâu có ngày hôm nay ?! Những tưởng trả ơn bằng việc cho con ông ở lại không phải ra chiến trường. nếu ông chấp nhận lòng anh đã phần nào thanh thản .Ông ấy giúp vô tư trong sáng, chính sự vô tư trong sáng ấy làm anh day dứt suốt đời.
Chắc mọi người đang nóng lòng muốn biết vụ mất súng tôi đã xử lý ra sao. Đó là câu chuyện dài kể ra đây chưa tiện, mong mọi người lượng thứ. Tuy nhiên để đưa được khẩu súng từ giới giang hồ về với chủ là quãng thời gian vất vả, đấu trí cam go và không kém phần nguy hiểm. Ai muốn biết chuyện xẩy ra như thế nào, nếu có dịp gặp nhau tôi sẽ làm thỏa trí tò mò của các bạn.
Sau khi nghe giải bày, vợ tôi bảo:
- Thôi tuỳ anh ! Ông ấy chẳng bù cho cha con cậu Hoàng Trọng Tâm ! 
Nghe cô ấy nhắc đến Hoàng Trọng Tâm, tôi nhớ chuyện như vừa xảy ra ngày hôm qua. Có thể nói, trong suốt mấy năm đảm nhiệm chức vụ Tiểu đoàn trưởng, đó là vụ hối lộ lớn nhất. Nếu tính theo thời giá hiện nay vợ chồng tôi đút túi không dưới 200 triệu đồng tiền Việt… 


Đi thao trường về thấy chiếc U-oát biển xanh đậu trên sân bóng, đầu quay về hướng nhà BCH Tiểu đoàn, vừa bước vào sân cậu liên lạc nhanh chân chạy ra:
- Thủ trưởng có khách ngoài Vinh vào.
- Ai đấy ?
- Bố cậu Tâm C3.
- Có phải bố cậu tân binh từng tuyên bố : “Chỉ cần xe gỗ của cha tao là tao sẽ ở lại đi học lái xe” hay không ?”
- Dạ phải !
Tôi vừa vào nhà mặc dù đang nói chuyện với các cấp phó nhưng ông vội vàng đứng dậy đi lại phía tôi bất chợt ông chững lại quay nhìn mọi người, có lẽ ông không ngờ Tiểu đoàn trưởng lại trẻ hơn cả 3 cấp phó. Sau một lúc chuyện trò mang tính xã giao, ông nháy mắt cho cậu con trai đi ra. Ông đặt vấn đề:
- Lẽ ra vào thăm các thủ trưởng lâu rồi, nhưng công việc của lâm trường nhiều quá.
Hôm nay vào thăm cháu và cũng nhờ các thủ trưởng dìu dắt giúp đỡ để cháu trưởng thành, gia đình tôi sẽ không quên ơn các thủ trưởng. Theo tôi được biết đợt Huấn luyện này sẽ để lại một số cho đi học lái xe, cháu cũng thuộc diện được ưu tiên bởi cả nhà tôi chỉ một mình cháu là con trai. Nếu các thủ trưởng giúp đạt nguyện vọng, gia đình tôi đội ơn các thủ trưởng suốt đời . 
Từ ngày làm Tiểu đoàn trưởng chưa gặp người khách nào thẳng thắn như ông 
 Cuối cùng ông nói thêm:
- Chỉ cần dưới này đề nghị, phần cấp trên tôi sẽ lo liệu.
Thực tình tôi rất bất bình bởi câu tuyên bố “xanh rờn” của Hoàng Trọng Tâm. Con trai ông đang đư
ợc huấn luyện tại đại đội 3, khi nghe ông nói đến “con một” tôi cũng thấy chạnh lòng. Giận nó mà để đi chiến trường Campuchia  thì ngày trở về chỉ là hy vọng mong manh. Đến thời điểm đó tôi đã 2 lần đưa quân giao cho mặt trận 479 tại Xiêm Riệp, chiến trường ấy còn nguy hiểm hơn cả những năm tháng ở mặt trận Tây Nam Huế. Cái chết cứ rình rập từng giây từng phút ngày này qua ngày khác chẳng lúc nào được  yên thân .
Sau khi hội ý BCH, tôi nói với ông:
- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kỹ hơn, nếu quả thực Tâm là con trai một chúng tôi có thể để em ở lại, còn đi học lái xe thì tôi khuyên bác : Tính tình như em Tâm bác không nên cho nó theo nghề lái xe.
Chào ra về mà thấy khuôn mặt ông rạng rỡ như thể đã toại nguyện. Ông kéo tôi ra một góc rồi nói nhỏ đủ 2 người nghe:
- Tôi xin biếu Thủ trưởng một số gỗ tốt đủ để cất một nếp nhà 3 gian, mong thủ trưởng vui lòng nhận cho để về nói với mẹ cháu cho cô ấy yên tâm.
- Bác đừng làm thế. Nếu bác làm v
ậy cháu sẽ để cậu Tâm đi đấy.
Một chuyện ngoài sức tưởng tượng và tất nhiên tôi đem chuyện này kể với vợ, cô ấy bảo:
- Đừng có mà làm dại.
Và rồi tôi thấy chưa ai táo bạo liều lĩnh như ông, ông cùng vài người nữa(chắc là trợ lý) đánh hẳn một xe tải gỗ thành khí đ
ậu trước cổng trường vợ tôi rồi vào khu tập thể tìm gặp cô ấy:
- Tôi đã làm việc với Thủ trưởng Hanh rồi, xin hỏi cô nhà thủ trưởng thuộc xóm nào xã Nam lĩnh để tôi cho anh em chở về quê cho thủ trưởng.
- Xin bác đừng làm thế, chủ nhật vừa rồi anh ấy về đã nói chuyện này với cháu, bác không hiểu anh ấy đâu, nếu cháu nhận xe gỗ kia thì anh ấy băm nhỏ cháu ra và buông sông mất, nếu bác cố làm v
ậy, anh ấy bực lên r ồi cho con trai bác đi Campuchia  thật đấy.
Sau lời từ chối pha chút hăm dọa của vợ tôi, ông cho chở gỗ về. Tuy nhiên ông bắt nhận một tấm lát hoa  coi như món quà kỷ niệm. M
ấy năm sau đó khi có nhà riêng, tôi đã dùng nó làm 2 mặt cánh cửa khi thuê thợ đóng chiếc tủ 2 buồng.
Ban chỉ huy chúng tôi để cậu Tâm lại đơn vị trong khi hầu hết đã sang Campuchia. Chẳng bao lâu sau có quyết định do Tham mưu trưởng sư đoàn ký điều động Tâm đi học lớp lái xe tại trường lái xe quân khu. Sau khi có quyết định nhiều lời bàn tán, có người bảo: ”Ông Hanh nuốt trôi cả xe gỗ thì thằng Tâm đi học lái xe có chi là lạ”
Tôi triệu tập cuộc họp bất thường tất cả cán bộ khung của Tiểu đoàn, trình bày toàn bộ sự việc Hoàng Trọng Tâm. Để khẳng định mình tôi quyết định: Không chấp hành lệnh điều động của Tham mưu trưởng sư đoàn.
Sau một hồi tranh luận tôi lấy biểu quyết. K
ết quả gần 60% đồng ý với quyết định của tôi. Rất nhiều lời khuyên nhưng có lẽ ý kiến của cậu Quế (C trưởng C2) đã làm tôi thay đổi quyết định:
- Chấp hành hay không là do Tiểu đoàn trưởng, nhưng theo tôi nếu không chấp hành chỉ thỏa mãn sự n
óng giận tức thời rồi hậu quả Tiểu đoàn trưởng sẽ gánh chịu còn lâu dài bọn tôi cũng vạ lây. Thời nay ai bẻ que chống trời được. Hơn nữa cậu ta là con một, để cậu ấy đi nếu không có ngày về lúc ấy anh sẽ ân hận suốt đời. Con cái mấy người quyền thế giàu có được mấy đứa không vênh vang như cậu ấy. Anh nên bỏ qua cho nó, còn ai nghĩ sai về anh rồi họ cũng sẽ hiểu đúng thôi. Gan ruột anh chúng tôi chẳng lạ chi.
Chưa đến một tuần sau tôi biết ai đã nhận xe gỗ đó. Có điều ông ấy đã từ trần cách đây mấy năm, tôi không muốn nhắc lại tên b ởi nghĩa tử là nghĩa tận. Xe gỗ ấy là rất nhỏ so với những điều ông ấy từng làm. Có hôm ngồi Cà phê tôi đem chuyện kể với bạn có người bảo: “Tệ tham nhũng có từ lâu làm sao mà chống được, nó là cái hiện hữu, chống chỗ này phình chỗ kia. Bóp quá mạnh nó nổ tung  mặt mình lại bị bỏng”Nếu đó là lời khuyên cho tôi thì đã quá muộn màng, năm 1987 tôi đã quyết định chuyển ngành,tránh xa môi trường đầy cám dỗ và nguy hiểm ấy...
Mấy anh em trong BCH tiểu đoàn đang ngồi hóng mát và chờ bữa cơm chiều, một chiếc xe Gát 63 lượn 2 vòng rồi đỗ trên sân bóng, đầu quay về hướng chúng tôi. Cánh cửa bên phía vô lăng mở ra, lái xe bước xuống. Tôi dễ dàng nhận ra Hoàng Trọng Tâm. Cậu ta nhảy lên thùng xe  khệ nệ bê theo một bọc gì đó rồi vui vẻ đi về nhà chỉ huy:
- Em chào các Thủ trưởng ! Em đã ra trường nhận xe nửa tháng nhưng hôm nay mới về thăm các Thủ trưởng được. Bố em gửi biếu các Thủ trưởng mấy cân thịt lợn rừng ăn cho biết. Ch
ợt nhớ khi còn ở chiến trường có hôm cánh lính chúng tôi phải ăn thịt lợn rừng thay cơm. 
Tâm xắng xởi và đắc ý lắm, thậm chí cậu ấy còn hướng dẫn cho cậu Lưu - liên lạc cách thức làm sạch lông, không những thế cậu xắn tay áo làm sạch miếng thịt mới chịu chào ra về, lúc chia tay tôi vẫn không quên nhắc nhở: 
- Nghề lái xe vất vả và nguy hiểm em phải luôn cẩn thận đ
ấy.
- Thủ trưởng yên tâm đi, hết nghĩa vụ em xin về lái xe cho Lâm trường của bố, nếu lái mà kiếm chác được thì em lái, còn không bố em sẽ bố trí công việc khác. 
- Chúc mừng cậu.

Chưa được 2 năm Tâm có quyết định ra quân về lái xe cho Lâm trường của bố, có lẽ “kiếm chác được”nên cậu ta vẫn “ôm” chiếc xe tải mặc cho vất vả hiểm nguy, lái xe chở gỗ lâm trường ai còn lạ gì nữa. 
Cách đây không lâu khi biết bố Tâm về hưu sống tại TP Vinh tôi đã tìm đến thăm ông, dầu sao cũng hàm ơn ông đã biếu tấm lát hoa để làm 2 cánh tủ. Sau 33 năm gặp lại không ngờ ông thay đổi nhiều đến thế, vào chuyện ông buồn rầu:
- Nếu ngày đó nghe lời Thủ trưởng (ông vẫn gọi tôi là Thủ trưởng) biết đâu vẫn còn thằng Tâm, hoặc ít ra gia đình tôi cũng là gia đình liệt sỹ…

Tôi lặng nghe ông nói mà lòng càng trĩu nặng, càng thương ông khi biết hoàn cảnh hiện nay: Căn nhà ở quê ông để lại cho bà vợ cả cùng con gái và con rể. Ông về Vinh sống với bà vợ hai và 2 cô con gái. Tâm bị thương nặng trong vụ lật xe, mặc dầu đã kịp thời đưa ra viện trung ương nhưng vẫn không qua khỏi. Khi tiễn tôi ra về ông đề nghị:
- Sắp tới làm giỗ năm thứ 25 của cháu nếu thủ trưởng còn thương nó thì mời thủ trưởng đến thắp cho cháu một nén hương .
Tôi đã không nỡ chối từ. 



Chưa hoàn toàn tin vào thuyết nhân quả, nhưng câu chuyện sau đây làm cho tôi dần tin “Nhân quả” là có thật.
Trung tâm huấn luyện thu
ộc Sư đoàn 441 thành lập ngày 28/2/1978 đóng quân trên Khu vực Khe Lang nằm giáp ranh giữa 2 huyện Đức Thọ và Can Lộc. Với nhiệm vụ huấn luyện tân binh giao cho chiến trường Campuchia. Mọi người vẫn biết nơi đây được coi như “Địa ngục trần gian”. Có nhiều nguyên nhân để người đời gọi nó với cái tên rùng rợn như vậy.
Trước hết đó là môi trường sống. Chẳng bao lâu sau ngày có quyết định thành lập, công việc tuyển quân và tiếp nhận huấn luyện nhanh chóng đư
ợc triển khai. Để bảo đảm nơi ăn nghỉ cho trên dưới 6.000 quân mỗi đợt, mỗi năm 3 đợt. Dãy núi Trà sơn bạt ngàn bạch đàn, phi lao gần hai chục năm tuổi nhanh chóng bị chặt hạ để làm doanh trại. Khi tôi về nhận nhiệm vụ tại Sư đoàn chỉ còn đất trống đồi trọc. Tân binh sau những giờ tập mệt nhọc tìm một bóng râm để tránh nắng là điều mơ ước. Nhu cầu huấn luyện ngày càng tăng, nhu cầu doanh trại ngày càng lớn, thế là cán bộ chiến sỹ lại vượt qua dốc Thượng Sỹ sang xã Phương Mỹ huyện Hương Khê để phá rừng. Rừng Phương Mỹ lại cạn kiệt, cạn đến mức mà trước đó đàn voi rừng hơn 20 con lớn bé đủng đỉnh kiếm ăn dọc núi Trà Sơn phải bỏ vào rừng sâu sinh sống. 

Từng đoàn quân lại ngược đường số 8 lên Sơn Kim, Sơn Tây thuộc huyện Hương Sơn chặt phá rừng trồng của lâm trường. Khi rừng cây mỡ do công nhân lâm trường trồng, đường kính trên dưới 20 phân thưa dần, đoàn quân lại kéo nhau vào rừng sâu. Có thể nói đây là gian đoạn khai hỏa cho “công cuộc tàn phá rừng nguyên sinh” kéo dài đến tận ngày nay. Từng đoàn bè nối đuôi nhau xuôi dòng La giang, trước mỗi chiếc bè là 3 khẩu AK gác chéo nhau sẵn sàng nhả đạn, trên vòm lán che mưa che nắng là lá cờ đỏ sao vàng phấp phới bay, dăm bảy cán bộ chiến sỹ trên bè mình trần trùng trục dầm mưa dãi nắng, người đen như thổ dân Angola. Không nhân viên kiểm lâm nào đủ dũng khí ra lệnh dừng bè để kiểm tra. Ban đêm cắm sào vào chỗ nào đó để nghỉ thì bãi ngô non nơi ấy tan hoang như thể voi dày. Việc đi rừng “khai thác” gỗ làm nhà là một nỗi khổ của tân binh trong “địa ngục trần gian”ấy.

Nỗi khổ thứ hai là ô nhim nguồn nước nghiêm trọng.15 Tiểu đoàn chỉ có 2 Tiểu đoàn không ăn nước từ hồ Khe Lang. Ai cũng nghĩ nước hồ sạch lắm nhưng biết đâu 13 tiểu đoàn đóng quân quanh hồ đều xả thải xuống đó. Anh nào chưa bị ghẻ chưa gọi là lính 441.
Tuy nhiên những nỗi khổ đó chưa thấm gì so với tình trạng quân phiệt mà các em tân binh hứng chịu. Làm sai bất cứ việc gì, hay làm chưa vừa lòng cán bộ bất cứ việc gì cũng có thể chịu phạt. Phạt đứng nắng; Phạt đi lấy củi; Phạt vắt than; Phạt cuốc đất; Phạt đứng hố xí, vv…Nhưng kiểu phạt chôn chân thì thời huấn luyện trước lúc đi B tôi chưa từng thấy. Bắt được lính bỏ ngũ về, động tác đầu tiên là vào kho chứa dụng cụ tăng gia sản xuất, mấy người thì bấy nhiêu chiếc xẻng, tự đào hố cá nhân, khi đã ngang đầu gối thì lấy xẻng tự lấp chân mình và đứng đó cho tới gần sáng. Có hôm cán bộ đại đội , tiểu đoàn đi kiểm tra phát hiện, bắt đào lên thì 2 chân đã tím bầm. Cán bộ trung đội, tiểu đội là người trực tiếp quản lý tân binh, chịu bao nỗi vất vả cực nhọc do tân binh gây nên, việc hành xử thô bạo với lính là điều khó tránh đối với những cán bộ vô cảm. 


Nhưng một cán bộ chính trị hành xử tàn bạo với cấp dưới là điều khó chấp nhận. Đó là trường hợp Phạm Xuân Cảo, quê Hải Hưng, chính trị viên Tiểu đoàn 7. Chuyện của Cảo hầu như sỹ quan toàn Sư đoàn ai cũng biết. Cưới nhau đã 17 năm nhưng chỉ từ khi Cảo đưa vợ vào đơn vị ở liền 3 tháng, vợ anh mới chịu sinh ra một thằng cu, cả họ mừng. Khi con được 24 tháng Cảo đưa nó vào ở cùng bố. Những tưởng có đứa con trai sẽ làm giảm bản tính nóng nảy hách dịch khét tiếng của anh ta. Nào ngờ chứng nào vẫn tật ấy. Nguyễn Thị Nam là chiến sỹ nuôi quân, quê Nam Đàn, tiểu đoàn trưởng cho về nhà 3 ngày. Nam trả phép chậm mất 2 tiếng đồng hồ. Cảo không phạt vắt than như nhiều trường hợp khác. Đã 12 giờ nhưng Cảo bắt Nam một mình vào rừng Tân Hương chặt đủ 40 kg củi mang về, trời chiều nắng vẫn oi nồng, Nam lội xuống khe dầm mình cho đỡ mệt, đang trong những ngày có “chiến tranh”. Đêm về Nam sốt ly bì, 2 ngày liền không ăn uống gì, đưa lên bệnh xá thì đã muộn, Nam trút hơi thở cuối cùng khi vừa tròn tuổi hai mươi. 
Chẳng ai truy cứu trách nhiệm của Cảo.
Thằng con của Cảo được các chú cán bộ trung đội, tiểu đội “huấn luyện” nên nghịch như quỉ con. Xuống trung đội nào cũng vậy, một chú tân binh đóng giả gái, 2 chiếc bát bỏ vào ngực tựa như cặp bồng đào của chị em, một hồi còi vang lên là tập cho thằng nhỏ nhảy lên nắm lấy 2 chiếc bát, miệng la: 
-Bọp! bọp!..Bọp bọp !!
Mỗi lần “hoàn thành tốt nhiệm vụ”, cậu con lại được thưởng một chiếc kẹo. Chẳng bao lâu sau cậu ta thành thạo như thể thò tay vào túi lấy kẹo. Thành thạo như tân binh tháo lắp thông thường súng AK.
Khoảng 8h sáng ngày chủ nhật, các cô nuôi quân đang vo gạo nấu cơm trưa. Mấy chú trung đội dẫn “quỷ con” ra giếng nước chơi, nhằm để cậu ta “thao tác trên thực địa”. Thấy con thủ trưởng đến gần mọi người tranh nhau bồng bế. 
Toe! Toe! Toe! … Tiếng còi cách đó không xa vang lên. Đúng “hiệu lệnh” “quỷ con” chộp lấy 2 bầu vú cô nuôi quân bóp nhấn, miệng liên hồi kêu: Bọp ! Bọp !...Bọp Bọp…
Quá bất ngờ và xấu hổ, cô gái buông thằng bé khỏi tay mình chạy trốn, chẳng may đầu quí tử đập vào thành giếng. Khi đưa lên phòng quân y thì cậu ta đã mềm oặt như tàu chuối héo.
Sau sự kiện đó nhiều người bảo:
- Cô Nam chết khi chưa có chồng, ở dưới ấy buồn nên về bắt thằng bé xuống làm con nuôi.
Bởi quá đau buồn nên Cảo làm đơn xin nghỉ mất sức. Sức mất chưa đủ phần trăm nên Cảo đành phục viên. Từ đó đến này chẳng ai có tin tức gì về Phạm Xuân Cảo, mặc dù Ban liên lạc CCB Sư đoàn 441 vẫn tổ chức gặp mặt 2 năm một lần vào ngày 28/2 tại trạm khách quân khu./. 


Thứ bảy, ăn xong cơm trưa chẳng nghỉ ngơi gì tôi chuẩn bị mọi thứ cần thiết để về với vợ con. Không quên mang theo khẩu CKC để vào núi Hồng Lĩnh đi săn - đi săn là một thú vui có từ hồi còn ở chiến trường. Vừa dựng chiếc xe đạp vào thềm nhà thì cũng vừa lúc cô ấy đang khóa cửa để lên lớp buổi chiều. Chẳng thấy tươi cười như thường lệ, cô ta quay lại phòng, mở cặp lấy ra một chiếc phong bì vứt đánh bẹt xuống mặt bàn:
 - Đọc đi !Tôi không ngờ anh có chiếc mặt nạ hoàn hảo đến vậy.
   Xong, mang vẻ mặt “bánh đa dấp nước” đi lên lớp và giờ nghỉ giải lao không về như mọi ngày.
Tôi mở phong bì ra xem. Nét chữ con gái. Thôi chết ! Đây là bài thơ tôi viết về một cô gái có chồng vượt biên, tên cô ta là Liễu, là con dâu ông Trường, nguyên là một cán bộ trong kháng chiến chống pháp, do bất đồng nhiều quan điểm nên ông vượt tuyến vào Nam phục vụ cho chế độ VNCH. Chức vụ cao nhất của ông trước lúc Sài gòn thất thủ là thư ký cho TT Nguyễn Văn Thiệu. Toàn bộ bài thơ chỉ sai một chữ ở câu cuối cùng, nguyên bản tôi viết: “ Thôi chào em nhé ! KHÔNG chờ hồi âm” nhưng trong bản chép tay này lại ghi:”Thôi chào em nhé ! ANH chờ hồi âm”
 “Tình ngay lý gian” không có cách nào biện minh. Đọc xong tôi gục đầu xuống bàn cố tìm con đường đi của lá thư may ra có thể cứu vãn cho mình. Cô ấy giận là đúng thôi, có bị đánh đòn cũng sẽ cúi đầu nhận tội, thậm chí có phải học cách của Hàn Tín cũng phải làm, vợ mình chứ đâu phải Hạng Vũ, có chui qua thì vẫn là vợ miễn là cô ấy tha cho, vì sự hiểu lầm mà để mất cô ấy thì đời còn gì nữa?! Trước mắt trong thời gian chờ vợ đi dạy về tôi vào núi đi săn cố gắng bắn được nhiều chim Đa đa càng nhiều càng tốt (có hôm tôi đã mang về 16 con vừa Đa đa vừa chim bồ câu trời) may ra làm cho cô ấy bớt giận.Thật đen đủi, bụng dạ lúc nào cũng nghĩ về bức thư nên 10 viên đi ăn sim mất 9.
  Buồn bã quay đi việc đón con, giặt giũ và nấu cơm để khi cô ấy về đã có mâm cơm tươm tất với món chim Đa đa thịt trắng như thịt gà, thơm lừng. Tôi cố làm lành nhưng cô ấy thì không.
Trước lúc ngồi vào bàn ăn, cô ấy giội một gáo nước lạnh:
- Từ nay tôi vẫn cho phép anh đi về với con như bình thường, anh cứ quan hệ với cô ta thoải mái, tôi đã có 2 mặt con nên chẳng dại gì làm đơn ly dị để sau này mang tiếng con không cha. Vả lại nếu tôi có bỏ anh thì thiên hạ lại nghĩ tôi là người xấu bởi anh có chiếc mặt nạ quá hoàn hảo, không ai nghĩ anh lại là kẻ đểu giả đến như thế. Muốn sung sướng thì cứ tiếp tục theo cô ta. Núp váy đàn bà mà không biết nhục !Thôi ! Ăn đi ! Tôi là giáo viên chỉ có thế này thôi !

Nghe nói thế tôi lại càng thương cô ấy.  Làm một thằng sỹ quan của một quân đội từng đánh thắng 3 đế quốc to mà lương không nuôi đủ một con chứ đừng nói đến hai. Nếu bỏ bát thịt Đa đa ra ngoài thì chỉ còn 2 con cá trích, đĩa dưa cải củ muối chưa kịp đổi màu, bát canh rau lang nước trong xanh. Gọi là bữa cơm nhưng đâu phải cơm. Hạt Bo bo nhai đến rã quai hàm. Nhớ lại những lần đi vào thành Huế nắm tình hình đối phương, thấy sỹ quan QLVNCH lái xe chở vợ con dạo phố mà chạnh lòng.
Những chủ nhật trước được về, trong bữa cơm cô ấy xé thịt cho con, rồi cũng dành phần mình vài miếng cổ cánh, bòn lấy chút thịt còn sót trên những cọng xương mà con bỏ lại, ăn cho biết thịt Đa đa thơm ngon đến nhường nào. Hôm nay cô ấy không đụng đũa, tôi gắp bỏ vào bát cô ấy trả lại:
  - Cảm ơn !
Cậu con trai lại gắp bỏ vào bát mẹ:
  - Không khiến !
Tôi không thể thanh minh gì lúc này. Lặng lẽ ngồi ăn như kẻ tử tù ăn bữa cơm trước lúc lên máy chém. Ăn xong giành phần rửa bát nhưng cô ấy không cho.
  - Từ nay anh là khách của gia đình tôi! (Từ trưa đến giờ cô ấy vẫn xưng “tôi”)
 Khi hai con đã đi ngủ cô ấy ngồi vào bàn chấm bài kiểm tra tôi mon men lại gần cố ý thanh minh:
  - Không phải nói gì nữa đâu, tôi còn biết cô ta ngang nhiên ra gặp anh giữa thanh thiên bạch nhật, rồi nửa đêm anh đi vào Kỳ Anh gặp cô ấy. Người của tôi đầy ra trên ấy, mọi hành động của anh họ nắm hết cả.
Thôi chết, cô ấy có “điệp báo” thật. Có điều  vào lúc 11h đêm hôm ấy tôi cùng một trung đội trưởng vào Kỳ Anh là để điều tra vụ 3 tháng liền tiểu đoàn mất 3 con lợn thịt chứ đâu phải vào gặp cô Liễu.(Chính điều tra ra thủ phạm của vụ mất lợn dẫn đến vụ mất súng của tôi)
Ra thế ! Tôi quay ra giả vờ đọc báo nhưng bụng dạ đang cố tìm ra kẻ nào cố tình gây rối gia đình mình nhưng cuối cùng vẫn bó tay. Sau này tôi biết đó là em gái của cô giáo viên cùng tổ kế toán với vợ, cô ta là y sỹ ở ban quân y sư đoàn. Đợi cho cô ấy đi ngủ, tôi nhẹ nhàng vào ôm lưng,cô gạt tay ra, mãi rồi cô ấy cũng nằm yên  nghe tôi thanh minh, tôi phân tích từng câu từng chữ trong bài thơ, tôi biết cô ấy là người giàu lòng vị tha, cô ta quay phía tôi, tay chỉ về chiếc gường một. Lòng khấp khởi mừng thầm, có lẽ vợ mình đã tha thứ, hoặc chí ít thì cứ để đó xem xét sau, tôi vui ra mặt đi về chiếc giường, giũ chiếu, mắc màn nằm chờ miệng lẩm nhẩm câu ca dao: “Mù u ba lá mù u…”.
- Đừng mơ !
Tiếng cô ấy từ chiếc giường đôi nói ra.
Ấp con ngủ yên rồi cô ấy đi về chiếc giường một vén màn lên, tôi hỏi :
   - Sao lại vén màn lên ?
   - Không trăng sao chi hết !
  Chưa hiểu cô ấy định làm gì, thấy nhẹ nhàng ngồi lên bụng, cứ ngỡ có chiêu trò gì mới, lòng rạo rực đón nhận. Bất ngờ cô ấy nắm lấy hai tai rồi nhấc đầu lên lại dằn xuống giường, cứ thế liên hồi miệng rít qua kẽ răng:
- “Thương vay, khóc mướn” ! “Thương vay khóc mướn”! Trị cái tội “thương vay khóc mướn”
Tôi đau thực sự nhưng biết cô ấy đang xả giận nên cố gắng chịu đòn mà nếu giãy ra cũng khó, bởi tôi chưa nổi bốn lăm ký lại nằm ngửa yếu thế, còn cô ấy nặng bằng bao xi- măng. Đau nhưng lại thấy vui vui bởi kể từ ngày yêu nhau chưa thấy cô ta hành xử thô bạo như thế. Khi đã không còn chịu được nữa tôi la lên. Thấy động thằng con trai đầu tỉnh giấc. Nó chạy lại giằng tay mẹ nó và hét toáng lên :
 - Không được đánh bố ! Không được đánh bố !
Đang trong cơn giận dữ cô ấy rút chiếc roi vẫn cắm bên vách để dọa con hàng ngày chỉ vào mặt:
- Im ngay ! Đi ngủ !
 Cô ấy buông tôi ra, chạy về phía con lôi nó lên giừơng bắt ngủ tiếp rồi quay lại phía tôi, sẵn roi trong tay quất mạnh vào đùi ra lệnh:
- Dậy đi tắm mau, hôi như chồn !
Đúng là hôi thật, cả chiều trườn bò trong núi về lại bao nhiêu công việc để lấy công chuộc tội  và cũng chưa kịp tắm. Tôi lẩm bẩm:
  - Như chó Becgiê !
  - Nói lại ! Ai chó ?
  - Dạ thưa chị ! Em bảo mũi chị thính như chó Becgê ạ !
Sẵn roi trong tay quất tiếp vào mông làm tôi đâu điếng:
- Đi mau !
Tôi ngoan ngoãn như đứa trẻ mắc lỗi được cha tha đòn lẳng lặng lấy gầu đi ra giếng công cộng…
Từ lúc xẩy ra cuộc “tập kích” biết “chiến sự” xẩy ra, để thỏa trí tò mò mấy cô phòng bên thức dậy qua kẽ vách nhìn trộm. Tiếng ai đó nhận xét:
 - Em đã bảo rồi mà, đàn ông mà hiền như cục đất thế nào cũng có ngày cô ấy cưỡi cổ cho mà xem, hôm nay mọi người nhìn thấy rồi đó. Em nói không sai.
Trên đường ra giếng nước tôi thầm nghĩ: Nếu cô ấy không như thế thì đã đồng ý cho vài đảng viên “dìu dắt giúp đỡ” vào đội ngũ “những người tiên phong” từ lâu rồi. Còn tôi thì hiền thật, “hiền cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ tan” !

Đó là lần bị vợ giận lâu nhất, ngoài ra trong suốt gần 50 năm qua cũng nhiều lần làm cô ấy giận, nhưng chẳng lần nào quá 30 phút mà chưa cần sử dụng đến bài “…ba lá mù u…”
Sáng thứ 2 trở về đơn vị lòng khấp khởi mừng thầm vì được vợ tha cho tội “thương vay, khóc mướn”. Vừa bước chân vào nhà thì thấy cậu Minh trưởng Ban quân pháp sư đoàn đang ngồi chờ tại phòng giao ban, sau một hồi xã giao Minh bắt đầu đặt vấn đề:
  - Sáng nay tôi xuống gặp anh để truyền đạt tinh thần của cụ Khởi, Cụ bảo chiều nay mời anh lên gặp Cụ, Cụ muốn trao đổi với anh về vấn đề gì đó ?
  - Ông biết chuyện gì thì giúp nói cho mình biết trước để chuẩn bị tinh thần được không ?
  - Hình như anh có đơn tố giác về việc có quan hệ với một người phụ nữ có chồng vượt biên sang Mỹ !
 Thôi chết, lại chuyện bài thơ tôi viết về cô Liễu. Bài thơ sau khi ra đời đã nhanh chóng lan đi khắp tiểu đoàn, rồi sư đoàn. Đi xuống đại đội nào là anh em lại mang cây Ghi-ta đến yêu cầu tôi vừa đàn vừa ngâm. Thậm chí, anh Thụy bác sỹ Ban Quân y sau nhiều năm xa nhau đến khi gặp lại vẫn yêu cầu tôi đọc cho nghe. Không ngờ bài thơ ấy lại mang đến cho mình nhiều phiền toái như vậy. Chả là một tuần sau khi bài thơ được phổ biến, cậu liên lạc của BCH bảo:
- Mấy lâu nay khô khan quá các thủ trưởng ơi ! Cho em về vài ngày kiếm ít đồ biển lên cải thiện.
Năm ngày sau Quý (tên cậu liên lạc) trả phép, thấy cậu ta ngồi sau chiếc xe Cúp màu đỏ láng bóng, lái chiếc xe là một cô gái mà thoạt nhìn ai cũng mê ngay. Tôi biết chắc không ai ngoài cô ấy. Xuống xe Quý nhanh chóng kéo tôi vào phòng nói vội:
   - Em đã gửi bài thơ cho chị Liễu chị ấy nhất quyết đòi chở em ra!
   - Mày giết tao rồi !

Trước mặt tôi là một cô gái mắt sâu thẳm, đượm buồn như Đức mẹ đồng trinh, không son phấn gì nhưng nước da trắng mịn, lại pha chút nắng hanh heo đường trường nên đôi má hây hây như chào mời. Là dân theo Chúa nên nói năng dịu dàng.“Dẻo mỏ” như tôi mà vẫn trở nên ngọng nghịu khi giáp mặt cô gái. Cậu Quý như con yêu tinh nháy mắt cho mọi người đi ra, chỉ để mình tôi và Liễu đối diện.
 - Em mong anh đừng mắng Quý mà tội nó, nhà em và nhà Quý gần nhau và cùng xã. Nhận được thư của anh là em đi ngay. Lẽ ra em viết thư xin phép anh trước, đường đột thế này biết anh không vui nhưng nhân lúc Quý trả phép em xin theo nó, nếu không chẳng biết dịp nào mới ra thăm anh được…
Hầu như tôi chỉ ngồi nghe cô gái nói, hơn nữa những điều cần nói tôi đã viết ra trong bài thơ. Có một điều cô ấy không biết được rằng: Bài thơ cô nhận được không phải do chính tay tôi gửi mà do cậu Quý chép lại bỏ vào bì thư và đề: ĐHH- Gửi em:Thúy Liễu. Tôi không ngờ cậu liên lạc xin về lấy thực phẩm chỉ là cái cớ để mang bài thơ về cho cô ấy.
 Cuối cùng Liễu đề nghị:
 - Dân làng ai cũng bảo em sung sướng lắm, chỉ có anh là người duy nhất hiểu được nỗi khổ của em, nếu không phiền hà gì, cho phép em nhận anh làm anh kết nghĩa, em chẳng mong gì hơn thế !
 Sau lần gặp ấy không biết tôi sợ cô ta hay sợ bản thân mình, sợ đến mức mà có lần ban quân lực sư đoàn phân về nhận quân tại huyện Kỳ Anh tôi đã xin đổi đi huyện khác (ngu hết chỗ nói).
                                                      ***
 Bước vào nhà trưởng phòng chính trị sư đoàn, thấy tôi ông rất niềm nở:
  - Vào đây! vào đây! Vào đây anh em mình nói chuyện cho ấm cúng !
  Thoạt nghe đã thấy mát lòng, ông vào đề ngay:
  - Chả là mình nghe anh em xì xào về cậu, mình nghĩ : chẳng lẽ cậu lại dại dột, ấu trĩ về chính trị đến như vậy bởi thế hôm nay muốn mời cậu lên nghe cậu nói thực hư thế nào ? Thế thôi !
  - Tôi chưa hiểu trưởng phòng muốn nói về vấn đề gì ?
  - À, về việc có người tố giác cậu có quan hệ bất chính với cô gái nào đó ở Kỳ Anh, cậu đã viết thư và đi lại với cô ta, có gì cậu cứ nói thật với mình, nếu lỡ ra có việc gì mình còn bảo vệ cậu, bảo vệ cán bộ , đảng viên. Người có năng lực như cậu mà ra khỏi quân đội thì tiếc lắm !
 Nghe xong , tôi hỏi lại:
  - Anh đã đọc hay nghe bài thơ tôi viết về cô ấy chưa? Nếu chưa để t ôi đọc anh nghe.
 Sau khi nghe tôi đọc toàn bài bằng điệu ngâm thơ, điệu mà tôi vẫn thường ngâm cho mọi người nghe .
Ngâm xong tôi nói lại hoàn cảnh ra đời, phân tích tính tích cực của một vài khổ trong bài thơ, rồi cho ông biết thêm một chút lai lịch về cô gái và mối quan hệ giữa tôi và cô ấy ở mức nào .
  Nghe xong ông ấy bảo:
  - Đây là bài thơ hay giàu cảm xúc, nếu chỉ dừng lại ở đây thì chẳng việc gì, để mình trao đổi lại với Sư đoàn trưởng
 Ra thế , cả sư trưởng cũng quan tâm.
 Ra về, trưởng phòng chính trị không quên nhắc nhở:
  - Đúng ! Cậu phải tránh xa cô ấy ra, tiếp cận với cô ta là có thể kết tội cậu có quan hệ với kẻ thù đấy !

Sau đây là toàn văn bài thơ tôi viết sau khi nghe anh em lính Kỳ Anh kể về một cô gái giàu có nhưng chồng cô đã vượt biên bằng đường biển để lại 2 đứa con trai khi cô mới 22 tuổi. Sự việc lặp lại mấy chục năm về trước khi ông Trường vượt tuyến vào Nam cũng để lại cho vợ 2 người con trai

“ GỬI EM !
Nghe lời họ nói về em
Mà sao anh thấy con tim bồi hồi
Không vì phú quí Liễu ơi
Để anh lại viết mấy lời gửi em
  Nhà giàu thật!
  Anh thốt lên
 Nhưng buồn thay cảnh đêm đêm lạnh lùng
 Con em hai đứa biết không ?
 Gọi ai bằng bố cho lòng sướng vui
 Dù cho của chất ngang trời
Nhưng tình chồng vợ chia đôi giữa đường
Em một phương, chồng một phương
Lấy ai tâm sự đêm trường hỡi em
Con thơ khi chúng lớn lên
Thấy ông , cha nó đứng trên đất thù(*)
Mai sau đất nước mạnh giàu
Ngẫm xa mới thấy quặn đau nỗi lòng
Còn em khi gọi tên chồng
Chỉ nghe tiếng sóng Biển đông vỗ bờ
Em giàu nhưng sống bơ vơ
Dù đi xe cúp Pô-giô cá vàng
Thương em trong cảnh giàu sang
Mà thiếu cái gốc: Tim vàng. Liễu ơi!
Nhà em của chất ngang trời
Nhưng không còn nữa lòng người thương yêu
Chẳng bằng cuộc sống chắt chiu
Có con, có bố sớm chiều bi bô
Thương em viết mấy vần thơ
Biết rằng anh chẳng bao giờ gặp em
Từ đây em nhớ đừng quên
Có chàng quân tử, một miền xa xôi
Đem lòng thương cảm một người
Sống trong nhung lụa mà đời quạnh hiu
Còn anh, dòng dõi họ Đinh
 Tên Hanh, đệm Hữu lênh đênh giữa dòng
Vì thời nên kiếp long đong
Mười năm quân ngũ vẫn không được về
Cấp bậc chức tước chẳng mê
Chỉ mê dưới ánh trăng khuya vợ chồng
Người đàn người hát thanh trong
Bên nôi con ngủ, giấc nồng say sưa
Liễu ơi, thư cũng đã vừa
Thôi, chào em nhé, không chờ hồi âm./.
 20/10/1982- Phú lộc-Can lộc- HT”


Hội CCB Đại đội trinh sát E6 được thành lập tháng 9/2009 do sáng kiến của Đại tá Trần Đình Duyệt và 3 người khác. Với tôn chỉ hoạt động là kết nối thông tin để tìm kiếm mộ liệt sỹ, gặp gỡ giao lưu, tham quan du lịch…
Cuộc gặp mặt năm nay (2017) do anh em Nghệ An đăng cai được tổ chức tại trạm khách T50 QK4 vào các ngày 24,25,26/3 do vợ chồng Trần Đình Duyệt làm mạnh thường quân. 3 ngày gặp gỡ giao lưu là 3 ngày ngập tràn ký ức về những năm tháng xưa. Có người đề nghị đổi tên trang hồi ký của tôi thành KÝ ỨC TRUNG ĐOÀN. Nhiều người yêu cầu viết thêm chuyện này chuyện kia. Tên gọi thì không thể đổi, bởi trang hồi ký này không chỉ viết về trung đoàn. Còn chuyện của người này người kia ư ? Những chuyện anh em nhắc đến nếu viết ra được chắc cũng hấp dẫn lắm nhưng với suy nghĩ: Những chuyện nắm không chắc là không nên đưa vào. Bởi trong 10 năm tồn tại và đồng hành cùng Trung đoàn, gần hai trăm cán bộ chiến sỹ được bổ sung cho Đại đội, hy sinh mất phần lớn nhưng nay vẫn còn gần 60 người đang sống rải rác trên nhiều tỉnh thành trong và ngoài nước, viết thiếu chính xác anh em lại cười : Thằng Hanh thành “ nhà văn” mất rồi ! Sau đây là câu chuyện được nhiều người nhắc tới. 
Trước lúc viết tôi đã điện cho Kiệt, anh ấy khuyên: 
- Em xin anh, em chẳng là gì đâu, em cũng đã nhiều phen lao đao. Hơn nữa em đâu phải là kẻ háo danh, em xin anh để em yên ổn làm ăn, xã hội bây giờ phức tạp lắm!
Tôi trả lời:
- Chuyện đâu phải của riêng em, cũng đâu phải lỗi ở mấy người chỉ đạo thi hành kỷ luật em mà đó là ý thức hệ của một giai đoạn lịch sử, vả lại đây là nguyện vọng của anh em CCB Đại đội ta. 

Vào những ngày đầu chế độ VNCH sụp đổ, trên đường phố Sài gòn người ta thấy một anh lính Bắc Việt trong bộ quần áo Tô châu và chiếc mũ tai bèo, chiếc bao tải vắt vai xủng xoảng tiếng vỏ chai lọ. Chẳng cần sĩ diện tư thế của một người lính bên thắng cuộc. Bữa ăn của chàng hầu như chỉ có bánh mì chay, nước uống được đóng chai từ vòi nước công cộng. Không ít người cám cảnh thương chàng, nhiều người muốn chia sẻ nhưng thấy chàng lầm lì nên ai cũng ngại. Dân giang hồ chẳng ưa gì chàng, bởi xem chàng là hiện thân của nguyên nhân làm đảo lộn cuộc sống vốn đang tự tung tự tác của họ…
Chiều hôm ấy một băng đảng đang tụ tập ăn nhậu, thấy chàng vác bao tải tới: 
- Ê ! Lại đây làm vài lon ! 
Chàng chẳng nói chẳng rằng, ngồi cách đó không xa chờ họ ăn xong để xin vỏ chai, vỏ lon. Một người lấy lon bia chưa mở tung về phía chàng bố thí: 
- Ê ! Cầm lấy !
Không biết vô tình hay cố ý chàng tung chân ra đỡ, hộp bia bay trở lại rơi đúng chiếc bàn ăn khiến vài món ăn tung tóe. Trưởng băng lớn tiếng gọi:
- Chủ quán ! Dọn bàn ! Thay món mới !
Bồi bàn nhanh chóng làm theo yêu cầu. Khi các món ăn đã bày ra bọn họ lại vui vẻ như không có việc gì xẩy ra. Ăn xong gọi chủ quán tính tiền:
- Ê ! Thằng kia ! Lại đây tao bảo !
Ngỡ bọn họ gọi lại cho nhặt ít vỏ lon vương vãi
- Thanh toán tiền đi !
- Sao vậy ?
- Mày làm đổ hết thức ăn của bọn tao, gọi thêm thứ này mày phải trả chứ còn hỏi chi nữa !
- Tôi không cố ý, xin các anh !
- “ Xin các anh” ! Đâu có dễ thế mày? Xã hội này sòng phẳng lắm, không phải cái gì cũng xin là được đâu ! 
 - Tôi đâu có tiền để trả cả bữa nhậu này cho các anh ! Mà nếu có trả thì các anh phải để số thức ăn lúc nãy tôi mang về ?! Như thế mới gọi là sòng phẳng chứ ?!
- Thằng này láo ! Hán ! Dạy cho nó một bài học !
Trưởng băng ra lệnh.
Người mang tên Hán cởi chiếc áo ngoài vất xuống đất, mình trần khệnh khạng tiến lên trước mặt anh giải phóng rồi ra đòn, chàng chỉ chống đỡ. Chưa cách chi quật ngã đối thủ những tưởng tung cú song phi để hạ nocout. Nhanh như tia chớp chàng trai nắm lấy 2 cổ chân tên Hán, một tiếng uỵch nặng chịch, khóa chân tên Hán kêu lên như cha chết. Đồng bọn nhảy vào không cách nào quật ngã đối phương. Biết đối thủ không phải tay dễ bắt nạt. Băng trưởng ra lệnh:
- Dừng tay ! Bọn em có mắt như mù, xin anh tha cho tội bất lễ ! Nếu đại ca không chê, xin mời đại ca đứng chủ sai khiến bọn em, bọn em xin cung phụng đại ca đến nơi đến chốn.
- Theo các anh thì tôi phải làm gì ?
- Chẳng giấu gì đại ca, bọn em chuyên đâm thuê chém mướn và đòi nợ .
- Tôi đã từng đâm thuê chém mướn cho cả một chế độ mà bây giờ vẫn ra nông nỗi này, theo các anh nhằm nhò chi. Việc của các anh  các anh cứ làm, việc tôi tôi làm miễn là giúp tôi thu gom vỏ lon vỏ chai là được. Tôi ớn đâm chém lắm rồi. Còn đòi nợ ư ? Tôi có một món nợ rất lớn mà chẳng dám đòi lại cho mình thì còn đòi được cho ai ?! Từ nay tôi với các anh coi nhau là bạn !
- Dạ ! Tụi em xin nghe lời đại ca ! Khi cần mong đại ca giúp bọn em !
Họ biết đâu trước đó Phạm Kiệt là một trong hai chiến sỹ đặc công của quân khu được bổ sung về Trung đoàn tăng cường cho đại đội trinh sát. Khi mới về mọi người gắn cho Kiệt họ Phạm để trùng họ với một trong hai vị Trung tướng đầu tiên của QĐNDVN được thụ phong năm 1948 – Trung tướng Phạm Kiệt - là người chủ động đề xuất với tướng Giáp thay đổi từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc thắng chắc” trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trong lần gặp mặt được tổ chức tại Huế, ngồi bên tôi Kiệt tâm sự:
- Trong cả cuộc đời bươn chải kiếm sống em thấy thời kỳ đi nhặt ve chai là sung sướng nhất, chẳng vốn liếng gì, nhặt bao nhiêu ăn bấy nhiêu, hết ngày là lăn ra ngủ, chẳng phải lo nghĩ gì cả. Nhìn nhếch nhác thế thôi nhưng nhanh khá ra phết. Chỉ sau một năm em có tiền đứng ra thuê địa điểm thu mua phế liệu và phất lên từ đó. Chưa bìu rín chuyện vợ con, lại không nghiện ngập gì nên bọc tiền dư giả ngày càng to ra. 
Tôi hỏi chen ngang:
- Thế sao cậu không lập nghiệp tại Sài Gòn mà lại là Nha trang ?
- Cái nghiệp truyền thống của gia đình cứ đeo đẳng, chả là quê em miền biển Thái Bình. Làm nghề gì mà có kinh nghiệm vẫn tốt hơn, kinh nghiệm nghề nghiệp là cái không mua được, là khối tài sản vô hình mà không phải ai cũng có ngay từ ngày đầu lập nghiệp. Hơn nữa ở Sài gòn thân cô thế cô, tính mạng như trứng quảy đầu gậy, sống chết khó lường. Nghĩ vậy và quyết định kết thúc 7 năm thu mua phế liệu, ra Nha Trang góp vốn làm nghề nuôi trồng chế biến thủy sản từ đó cho đến nay. Gặp các anh lần này chẳng có món quà gì đáng giá, chỉ tặng các anh ít sản phẩm đầu tay của nhà máy đóng hộp thủy sản Nha Trang, rất mong các anh sau khi dùng góp ý để sản phẩm ngày càng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.

Tôi thầm nghĩ “cha này biết khai thác ngay cả đồng đội cũ để làm nhân viên quảng cáo. Nó giàu là phải. Không biết cái án cậu ta phải chịu năm ấy có oan sai không nhỉ ?”
Khi được giới thiệu phát biểu cảm nghĩ sau 35 năm xa nhau. Kiệt đứng lên, miệng méo xệch rồi òa khóc như trẻ nhỏ:
- Nếu ngày ấy, các anh thừa nhận ăn thịt lợn tươi đỡ ngán hơn thịt hộp và số lượng được nhiều hơn thịt hộp, các anh đừng nghe theo cấp trên biểu quyết đa số thì cũng khó kết tội em tham ô. Nhưng mà thôi, chuyện qua lâu rồi em nhắc lại chỉ muốn mọi người hiểu cho: Cái án em gánh chịu năm đó là oan sai. Bây giờ nghĩ lại thầm cảm ơn mọi người, nếu không bị đẩy xuống đáy xã hội thì may ra em cũng chỉ là tay Trung tá vá xe hoặc phúc nhà to là anh Đại tá nghỉ hưu chắc gì đã có ngày hôm nay…
Nghe Kiệt giãi bày nhiều người mắt nhòa lệ, có thể đó là những giọt nước mắt ân hận muộn màng như thấy lại hình ảnh ngày nào Kiệt miễn cưỡng đứng lên nhận tội. 

Ngày ấy 35 năm trước, Anh Nguyễn Ngọc Tô quê Hà tây làm quản lý bếp ăn Đại đội được Trung đoàn cho phục viên. Với bản tính cẩn thận, chữ viết rõ ràng, Kiệt được chọn thay thế. Từ ngày Kiệt đảm nhiệm quản lý, bữa ăn của anh em khá lên trông thấy. Nắm bắt được nhu cầu của người dân thành phố tò mò muốn biết bữa ăn của bộ đội như thế nào, nhất là món thịt hộp sản phẩm đặc trưng của Miền Bắc, bộ đôi ta lại quá ngán ngẩm với thịt lợn hộp lều bều đã dùng lâu nay, nhất là món“thịt băm vụn hộp” được chế biến từ thịt cừu, ngửi thấy mùi nhiều anh đã khó chịu. Kiệt cho mang thịt hộp ra chợ Đông Ba đổi thịt lợn tươi với tỷ lệ 1/1.
Cuối tháng báo cáo công khai: Mỗi tháng tiêu thụ hết 120 kg thịt hộp, vài anh to mồm phản ứng:
- Tháng này ai biết mặt mũi hộp thịt là gì, vài miếng thịt tươi thái mỏng tang gió thổi bay, ai chứng giám đổi tỷ lệ 1/1 hay 1/2 ?
Và thế là có đơn kiện Kiệt lợi dụng chức vụ để tham ô.
Người bảo vệ Kiệt thì cho rằng Kiệt đã biết nắm bắt và vận dụng cơ chế thị trường linh hoạt và hiệu quả, thế là Kiệt lại bị qui thêm tội: Mơ hồ mất cảnh giác, chạy theo cám dỗ vật chất tầm thường của chủ nghĩa tư bản…Trong buổi họp kiểm điểm Kiệt có cán bộ của Trung đoàn về dự, với tinh thần phải xử lý Kiệt thật nghiêm để răn đe những ai còn mơ hồ về “bản chất xấu xa của CNTB”, thoái hóa biến chất, lợi dụng chức vụ để mưu cầu lợi riêng. Chẳng ai dám đi chệch hướng chỉ đạo của cấp trên. Hai tội danh được ghi vào hồ sơ. Kiệt có quyết định xuất ngũ, có người còn bảo : 
- Cho xuất ngũ là may lắm rồi.
Cầm bộ hồ sơ lý lịch này về xin việc các cơ quan nhà nước ư ?! Ai dám nhận một người có tư tưởng hữu khuynh lại có “tiền sự tham ô”.
“Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực” Kiệt chẳng nhất mà cũng chẳng nhì, mang nỗi nhục oan sai này về trình làng ! Dân làng coi ra gì nữa, bố mẹ rồi cũng chết sầu mất. 

Trong khi mọi người lỉnh kỉnh trên vai nào là khung xe đạp, búp bê nhấp nháy, thau rổ nhựa … trở về Bắc. Với 2 bàn tay trắng nhưng Kiệt tin ở cái XH vừa bị sụp đổ này đó có thể bán được sức lao động, cái mà ở ngoài Bắc chẳng ai coi ra gì. Kiệt tin vào những cơ bắp cuộn tròn săn chắc nhờ những năm tháng luyện tập trong một binh chủng đặc biệt. Và thế là ngược chiều với những chiếc xe đò chật cứng người mặc quần áo Tô châu. Trên nóc xe lỉnh kỉnh hàng hóa sản phẩm của CNTB. Kiệt quyết định bắt xe vào Sài gòn…
Kiệt lau nước mắt, dừng lời. 
Chính trị viên Sợi đứng dậy : 
- Nghe chú Kiệt nhắc lại chuyện xưa ai cũng ngậm ngùi xúc động. Chú Kiệt nói đúng, chính trong hoàn cảnh đó, chú ấy đã biết khẳng định bản chất của người lính Cụ Hồ, bản lĩnh của người chiến sỹ trinh sát Trung đoàn Phú Xuân để hôm nay anh em chúng ta có quyền nói rằng: Đại đội chúng ta tự hào có Phạm Kiệt! ( Chả trách gì trước lúc nghỉ hưu anh ấy mang hàm Đại tá - Chủ nhiệm chính trị tỉnh đội Hải dương)
Nặng nghĩa với mảnh đất mà bao đồng đội đã nằm lại trong rừng xanh, nay lại vĩnh viễn nằm trong lòng hồ thủy điện sông Tả Trạch. Khi công trình khánh thành, Kiệt ra Huế xin đầu tư nuôi cá tự nhiên cung cấp thực phẩm sạch cho thị trường đồng thời xây dựng khu du lịch sinh thái với mức đầu tư ban đầu 20 tỷ đồng và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 30 con em CCB. Do chưa thỏa thuận được tỷ lệ ăn chia nên dự án vẫn nằm trên bàn của các cấp có thẩm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế. 
Kiệt hy vọng:
- Nếu dự án tiến triển tốt đẹp các bác sẽ là những du khách đầu tiên lên thuyền vào Bãi Gạo, vào Ba Lô, vào Đồi Nón…thắp hương cho bao anh em mình đã hết đường về.
Anh Thái (Trung tá - Trưởng phòng trinh sát QK1 đã nghỉ hưu, nguyên C trưởng) vỗ vào vai Kiệt, không biết anh ấy nói đùa hay thật lòng:
- Nếu ngày ấy mấy ông cán bộ chính trị nhận thức ra vấn đề, giới thiệu cậu làm cố vấn cho ban kinh tế trung ương Đảng, có thể đất nước ta không kéo dài thêm 10 năm cơ chế quan liêu bao cấp, không ngu xuẩn “đánh tư sản” ở Miền Nam, không phải trải qua một thời kinh tế cả nước kiệt quệ đến vậy ! Nhân dân không phải ăn bo bo trừ bữa thứ mà CNTB không dám cho gia súc ăn nguyên hạt.
Kiệt cười hiền lành như con gái:
- Anh lại tâng bốc em rồi ! 



Việc tách tỉnh Bình-Trị -Thiên khác với Nghệ Tĩnh. Từ năm 1990 trên các bàn bia tại TP Vinh những người vô công rỗi nghề đã bàn tán về câu đồng dao:
“ Quốc Lựu,Quốc Thại , Quốc Ban
  Cùng  với quốc lủi họp bàn việc chia…”
Chả là 3 ông có chung  tên đệm ấy cùng quê Hà Tĩnh, họ là những cán bộ của Đảng cũng đủ mưu mô mánh khóe nhưng ở chung với Nghệ An chỉ là cấp phó, nếu tách tỉnh cả ba ông nắm ba suất đầu tỉnh là cái chắc. Tách tỉnh chỉ có lợi cho đội ngũ cán bộ mà thôi, đối với người dân tách hay nhập cũng chẳng ảnh hưởng gì lắm. Dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh vốn nặng tình nặng nghĩa từ bao đời nay với tên chung “Xứ nghệ”.

Dương Xuân Châu
Bình Trị Thiên thì hoàn toàn khác. Tách tỉnh, dân tỉnh nào về tỉnh ấy. Thậm chí khi công việc chia tách hoàn thành, tại các công sở, các trường học người ta cho làm tổng vệ sinh coi như một sự tẩy uế của những năm nhập tỉnh.

Ai cũng nói Dương Xuân Châu là hệ lụy của thói cục bộ địa phương được lồng trong chủ trương chia tách tỉnh . Trước lúc chia tách anh đang đảm nhiệm Trưởng phòng kế hoạch vật tư thiết bị trường học, tách tỉnh người ta treo cho anh một chức vụ thật béo bở : Giám đốc Công ty thiết bị trường học tỉnh Quảng Bình, nếu là người tham quyền thì đây là cái ghế có thể kiếm chác được nhưng buộc phải xa vợ và 3 đứa con đang trong độ tuổi ăn học. Hơn nữa cái nghiệp dạy chữ đã gắn bó mấy đời. Với suy nghĩ:” Cha ông mình có ai quan chức gì mà vẫn kế nghiệp mấy đời dạy học, mình bỏ đi thì tiếc lắm ”. Nghĩ vậy Châu cầm tờ quyết định bổ nhiệm quay lại TP Huế gặp Giám đốc sở đề nghị:
  - Báo cáo anh, tôi có nguyện vọng xin được đứng lớp, trường nào cũng được, cấp gì cũng được, gần nhà thì tốt mà xa cũng được . Tôi xin nhường  chức Giám đốc công ty thiết bị trường học cho người khác.
 Giám đốc Sở tươi cười :
 -  Nguyện vọng của anh rất chính đáng và đáng trân trọng, nhưng xin lỗi anh nay đã tách tỉnh rồi, anh là người Quảng bình anh không nói được giọng Huế nên anh không thể đứng lớp ở xứ này, anh muốn đứng lớp xin mời anh về Quảng Bình tha hồ chỗ cho anh đứng.
 Dương Xuân Châu không ngờ Giám đốc sở lại cạn tàu ráo máng đến vậy, đầu anh như muốn nổ tung, rồi anh cũng kịp bình tĩnh lại:
   - Thế thì tôi hỏi anh, trước năm 75 bao nhiêu người không nói được giọng Huế mà sao tụi dân chính các anh vẫn bám đít họ để leo lên ?
  - Điều đó anh đi mà hỏi Đảng ! Đảng phân công ai thì người ấy làm !
 Lời qua tiếng lại và cuối cùng Đinh Xuân Châu xé toạc tờ quyết định bổ nhiệm ném vào mặt Giám đốc sở. “Thôi thì không có Nhà nước thì có nhà riêng, không có Đảng cũng chẳng sao, không có vợ không có con mới khổ, xã hội nào thì cũng phải bỏ sức bỏ trí tuệ ra mà kiếm sống, mà nuôi con”
Dương Xuân Châu bỏ tất cả, anh về với mái nhà riêng nơi có vợ hiền và 3 con đang độ tuổi cần có một người bố biết cách ươm mầm tài năng và lòng nhân ái.
Anh mở lớp tại nhà, dạy kèm các cháu từ lớp 5 đến lớp 9, luyện thi cho các cháu lớp 12.
 “Họa vô đơn chí” lại đổ ập vào gia đình anh, vợ anh đang là Cửa hàng trưởng chất đốt phía Nam, dính vụ án oan sai tham ô 84 triệu đồng, họ lập biên bản tịch thu con dấu và buộc thôi việc, mãi đến 10 năm sau mới được minh oan và cho tiếp tục nộp bảo hiểm để được nghỉ hưu. Rồi cô ấy trở thành cô giáo bất đắc dĩ: Nhận dạy kèm các cháu từ lớp 1 đến lớp 4.
Những ngày đầu thất cơ lỡ vận ai cũng ái ngại cho hoàn cảnh của vợ chồng anh. Trên chính mảnh đất năm xưa, nơi mà anh đã bỏ lại 41% xương máu lại nỡ đối xử với anh quá nghiệt ngã đến vậy. Mặc cảm với đời nên anh chẳng mấy giao du với ai, nếu không có người đồng đội nguyên là chiến sỹ trinh sát Trung đoàn, trưởng phòng quân y QK4 thì có thể những tờ giấy chứng thương đã thành mồi nhóm lửa.
 Anh chia sẻ:
 - Được sống thế này là may lắm rồi, vài ba mảnh bom đạn thấm tháp gì !
Có lẽ trời có mắt thật. Tháng 3/2017 vừa rồi trong ngày gặp mặt CCB đại đội trinh sát, Chị Diên vợ Đinh Xuân Châu gửi ra một khoản tiền không nhỏ nhằm giúp đỡ những CCB có khó khăn trong đời sống vật chất, mấy người trong Ban liên lạc ái ngại tỏ ý không muốn nhận, Lê Văn Lý tự hào bảo  với mọi người rằng:
 - Hội vui lòng nhận lấy cho bà ấy vui, bây giờ anh chị ấy không khổ nữa đâu, tuy 2 vợ chồng tháng chưa nổi 4 triệu bạc, nhưng thằng cả đứng đầu một Tổng công ty riêng, thằng thứ 2 Tiến sỹ toán học ở Pháp, thằng thứ 3 làm chuyên gia cho Nhật. Không đứa nào chịu ở lại Huế, nên chúng nó lập cho bố mẹ cuốn sổ tiết kiệm phòng khi đau yếu. Khi chưa đau yếu thì còn tiền để làm việc thiện, một việc làm mà chị ấy đã thực hiện từ gần 10 năm nay đối với dân nghèo huyện Phong Điền…

Vợ chồng Dương Xuân Châu (bên phải) và căn nhà nơi Vĩ Dạ
Trong lần vào Huế vừa rồi tôi được biết thêm: Cháu thứ 2 là Tiến sỹ tại Pháp vừa được nước sở tại trọng dụng và trả lương cao nhưng cháu đã từ chối để về Việt Nam thực hiện dự án đào tạo giáo viên dạy tiếng Hàn cho mấy vạn cô gái các tỉnh Miền tây, đồng thời đào tạo giáo viên dạy tiếng Việt tại nước Hàn. May mắn được dăm phút gặp cháu, cháu tâm sự :
- Nếu không làm thế, cả mấy vạn cô gái Việt làm dâu đất khách quê người sống khổ lắm chú ạ, hơn nữa thế hệ Việt kiều thứ nhất, thứ 2 lớn lên chúng chẳng biết tiếng Việt, chẳng biết gì về đất nước mà họ đang mang một phần dòng máu trong người.
 Nghe cháu nói tôi thầm nghĩ: “Những năm tháng còn lại của cuộc đời sẽ cố gắng học cháu được chút nào hay chút ấy. Đúng là con nhà tông…”
 
Chuyện về gia đình Đinh Xuân Châu kể hết còn dài lắm, ai còn nhớ đến Châu 3C khoa toán ĐH Vinh nhập ngũ 1/72 xin mời qua Đập đá, thôn Vĩ dạ. Vẫn ngôi nhà tềnh toàng và vật dụng tự năm nào. Có điều rất vui là sau mỗi tiết học nhà lại đầy ắp tiếng cười của đám học trò nghèo m à vợ chồng anh dạy chỉ với mức phí 50 ngàn đồng/tháng.
Nói đến chuyện Dương Xuân Châu sẽ chẳng thể quên chuyện xẩy ra trên đỉnh dốc H.15 hồi đầu năm 1973. Có lẽ hôm đối đầu với giám đốc sở, anh bảo: “Tụi dân chính chúng mày vẫn bám đít họ để leo lên” là có ý nhắc lại chuyện này:
Trên đường hành quân chuẩn bị cho chiến dịch đánh chiếm  đồng bằng trước lúc ký Hiệp định Pa-ri. Cùng hành quân có các anh chị em thuộc các cơ quan dân chính của địa phương, lên đến đỉnh dốc H.15( dốc Thanh niên) mọi người nghỉ giải lao, chuyện trò thật vui vẻ ai cũng muốn thể hiện mình bởi có “chất xúc tác”. Một người khoảng trên dưới 30 tuổi dáng vẻ thư sinh phán ra một chủ đề làm mọi người chưng hửng:
  - Người đời có 2 cái ngu, ngu thứ nhất là lấy vợ, ngu thứ 2 là sinh con.
Trong khi mọi người chưa biết nên tỏ thái độ như thế nào thì Dương Xuân Châu cười ha hả:
 - Thế thì nhà anh có 2 người ngu, người thứ nhất là cha anh, vì ngu mà lấy mẹ anh, người ngu thứ 2 là  mẹ anh, vì ngu mà đẻ ra anh.
  Nghe vậy mọi người cười tán thưởng. Được anh khơi nguồn, nhiều người phụ họa theo:
- Thế mày bảo cha mẹ bọn tao ngu nên đẻ ra chúng tao để vào đây chết oan à ?
- Bắn chết, chết mẹ nó đi !
- Đừng bắn mà phí đạn ! Lấy đá mà đập vỡ đầu nó ra !
Tính mạng của anh ta bị uy hiếp thật sự, vài ba người đứng dậy can ngăn và khuyên anh nên mang bồng đi trước. Anh ta nghe theo và lủi thủi xuôi dốc như thể con chó ăn vụng bị đánh đòn. 
Khi anh cán bộ địa phương  khuất bóng, mấy người dân chính đi cùng xoa dịu:
- Mong các chú thông cảm, ông ấy lên rừng không phải vì yêu mến chi cái lý tưởng CS, lên rừng để trốn chạy một mối tình, ông ấy nhiều khi nói năng hồ đồ vậy.
…Không biết vì lý do gì mà khi lên rừng theo cách mạng chàng bỏ lại Huế cô người yêu đã có bầu. Thương cô gái cả tin đã trao thân cho đứa em, bơ vơ giữa chốn thị thành, người anh cùng họ đã lấy cô ta làm vợ. Biết đứa con sinh ra không phải con mình nhưng dẫu sao nó cùng máu mủ nên coi  như con đẻ. Lớn lên cho ăn học tử tế. Những tưởng được du học tại thành trì của CNXH sẽ được vinh thân, nào ngờ ngày đón nó về đã mang trong mình bạo bệnh chẳng bao lâu thì qua đời. Chàng cũng sinh bạo bệnh. Những ngày cuối đời, người bón cho chàng từng thìa cháo lại là cô người yêu năm nào. Dẫu sao thì trước lúc về thế giới vĩnh hằng chàng cũng được nếm vị ngọt của đời, biết thế nào là sự dịu mát của bàn tay người khác giới…


Chuyện xẩy ra trên dốc H15 những tưởng  đã đi vào quên lãng nào ngờ Dương Xuân Châu lại gặp chàng trong cái ngày tách tỉnh nghiệt ngã ấy. Không ngờ thật một người lên rừng theo cách mạng không phải vì yêu lý tưởng CS mà vẫn leo lên đến chức Phó chủ tịch TP rồi Giám đốc sở Giáo dục - Đào tạo Thừa Thiên Huế. Hóa ra, dưới vẻ dịu êm của dòng Hương Giang, vẻ mộng mơ của những tà áo tím, lẫn trong giọng Huế dịu ngọt đến mê hồn lại ẩn chưa bao nhiêu chuyện để người đời suy ngẫm. Từ chuyện của cô gái Huế hành nghề mãi dâm trên sông (Chuyện đã lên phim) đến chuyện vị Bí thư Tỉnh ủy cướp công của đồng đội để treo đầy mình những tấm huân huy chương, xúi đàn em lập hồ sơ đề nghị phong tặng ông danh hiệu AHLLVTND thời đánh Mỹ.
Ôi xứ Huế ! Nơi mà bao cán bộ, giảng viên, sinh viên các trường ĐH cùng bao trai tráng nông thôn miền Bắc đã vô tư đổ máu tưới cho mảnh đất này !?


Xin mời các bạn một lần nữa thăm lại “địa ngục trần gian”.
Dù đi hết trong Nam ngoài Bắc  nhưng tôi tin rằng : Những điều các bạn nhìn thấy nơi đây còn hấp dẫn hơn cả nơi nào bạn đến, còn rùng rợn hơn cả công viên 18 tầng địa ngục. Xem xong các bạn sẽ thấy: Không dưng mà người đời lại đặt cho Trung tâm huấn luyện tân binh - Sư đoàn 441-QK4 cái tên như vậy.
Khi đang gõ lên bàn phím những dòng này, bên tai vẫn văng vẳng tiếng thầy Thung dạy môn văn phân tích 2 câu trong bài “Bình Ngô đại cáo”:
“Tướng sỹ một lòng phụ tử 
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”
Theo qui luật phát triển thì càng về sau cái tình Tướng- Sỹ đó càng gắn bó chặt chẽ , yêu thương nhau hơn bao giờ hết. Thế mà …
Cái rùng rợn nơi “Địa ngục trần gian” này không chỉ dành riêng cho binh lính, mà ngay cả đội ngũ sỹ quan cũng phải gánh chịu bởi áp lực rất lớn của nhiệm vụ huấn luyện lẫn đời sống vật chất tinh thần. 
Tôi không thể quên hình ảnh Trung úy Nguyễn Văn Quế Đại đội trưởng đại đội 2 cầm con dao tông, lấy phấn chia chiếc lốp xe đạp thành 4 phần bằng nhau bằng  2 nhát chặt và xách 1/4 mang về, miệng cười méo xệch :
- Phần của 3 chúng mày đấy !

Chả là Quế đã có vợ và một con ở quê, đi đêm lắm nhưng không gặp Ma mà gặp cô gái chưa chồng. Biết không thể thoát án kỷ luật nên tôi “xi nhan” cho Quế làm đơn xin phục viên. Trong thời gian chờ giải quyết chế độ, bốn anh Đại đội trưởng được phân một chiếc lốp xe, chẳng ai muốn nhừơng cho Quế, mặc dầu vẫn biết xe của Quế “Cố vấn” nhiều chỗ : “Đi đêm nhiều cho nó biết mặt”. Chẳng ai nhường và thế là Quế lấy phần của mình. Cái khó khăn, mặc cảm về quan hệ nam nữ làm cho con người mất hết nhân tính. Hồ sơ ra quân của Quế do Phó Tiểu đoàn trưởng phụ trách chính trị kiêm Bí thư Đảng ủy phê bút  ngay cái khuyết điểm của Quế vào trong ấy. Tôi bàn với Quế:”Phục viên về nhà cần gì hai chữ Đảng viên, bỏ đảng đi , mình lập lại hồ sơ cho cậu”. Kế sách của tôi hóa ra lại thuận lợi cho Quế, là người dám phá rào trong tình cảm, không đảng viên lại có điều kiện để phá rào trong làm ăn. Chẳng bao lâu đ ủ nu ôi 2 vợ và 4 con đầy đ ủ, ăn học tử tế. Riêng ông Bí thư,Quế hận đến mức mà năm 2015, khi tôi báo tin cho Quế biết ông ấy đã đột tử, nhà ngay ngã ba Lạc Thiện cách nhà ông ấy 5,6 km nhưng Quế chẳng đến thắp cho ông một nén hương.

Cái khổ thứ 2 của sỹ quan nơi “địa ngục trần gian” là khi không huấn luyện tân binh. Phương châm “Làm lấy nhà mà ở, sản xuất lương thực mà ăn, trồng lấy thuốc mà chữa bệnh” của tư lệnh Lê quang Hòa được ông Nguyễn Quốc Thước phát huy cao độ. Không huấn luyện thì phải làm kinh tế. Thế là rất nhiều kiểu làm KT được bung ra. Hình ảnh  hàng trăm sỹ quan 3,4 giờ sáng chạy ra bờ khe hồ Khe Lang đào đá ong làm vật liệu xây dựng, anh nào không quen lao động nặng nhọc thì xin về nhà đến hạn mang tiền vào nộp, có người tính tiền chỉ tiêu đá ong phải nộp gấp 2 lần lương hàng tháng. Có nhiều nhóm xin đi khai thác gỗ về bán. Rừng Hương Khê, Hương Sơn cạn kiệt lại sang Môn Sơn , Lục Dạ thượng nguồn sông Giăng tàn phá. Nhiều anh nhanh nhạy hơn thì về Vinh lấy hàng chở lên Hương Khê bán cho dân tìm trầm. Tôi là người tham gia cả hai  việc, khi dân làm trầm thất bại bỏ về, hàng hóa chẳng biết bán cho ai, lại thành lập tổ lên sông Giăng tung hoành. Về đến cầu Mưng Hưng nguyên cũng vừa bán hết gỗ nứa. Hơn hai tháng trời chui rúc rừng sâu rồi mình trần chống chèo đưa bè về xuôi,đen như quỉ đói, râu không cạo, tóc không cắt. Ăn uống kham khổ  sụt mất dăm ba ký, má hóp, người gầy nhom. Vừa về đến nhà mấy cô cậu học sinh hỏi vợ tôi: - Bố chồng hả cô? 
Nhìn lại mình trông thật thảm hại ! 

Bây giờ mỗi lần đi qua khu biệt phủ của Tướng Thước ngay trên quê của cụ, bên đường tránh Vinh lại thấy mình khờ dại. Nếu năm ấy, năm 1985 khi cụ dẫn cán bộ của 6 sư đoàn về tổ chức “hội nghị đầu bờ” tại Tiểu đoàn tôi, chỉ cần nhờ cụ  cho vài ba chiêu làm kinh tế thì đâu đến nỗi phải buôn gian bán lậu, đâu phải chui rúc nơi rừng thiêng nước độc.

TQS - Người đứng ngoài cùng bên trái

Nỗi khổ thứ 3 của sỹ quan và đặc biệt cán bộ cấp đại đội, trung đội, tiểu đội là phải chịu áp lực quản lý tân binh. Hầu như không có đêm nào không có lính bỏ ngũ. Nhiều đêm nằm nghe tiếng chân chạy, tiếng la hét của anh em đuổi bắt lính bỏ ngũ chẳng khác chi cảnh chạy càn trong kháng chiến. Chẳng đêm nào có được giấc ngủ yên lành. Bữa ăn hàng ngày cũng chẳng khác tân binh, đại đội nào chọn được cậu liên lạc siêng năng thì may ra có thêm bát canh tập tàng. Thức ăn chủ đạo để nuốt trôi cơm vẫn là nước gạo rang cộng với muối mà chúng tôi vẫn quen gọi bằng cái tên quen thuộc là “nước chấm”, bởi thế tuy cơm và hạt bo bo chưa đủ no nhưng vẫn dư thừa. Đời sống tinh thần chẳng khá gí hơn. Toàn Sư đoàn chỉ có E Bộ và Tiểu đoàn tôi có điện máy nổ thắp sáng đến 21 giờ đêm. Trong 15 tiểu đoàn chỉ đơn vị tôi có một chiếc tivi đen trắng 14 inch phục vụ cho ba bốn trăm người xem. Mỗi đại đội được phát 2 tờ báo Nhân D ân & Quân Đội. Trong bộn bề khó khăn cũng nẩy ra nhiều ý tưởng. Sáng kiến được nhiều người làm theo là tổ chức nuôi lợn riêng. Lợn tiểu đoàn , lợn đaị đôi, lợn trung đội. Nhìn cảnh mỗi dịp tết đến trên ghi-đông xe đạp của một số sỹ quan lủng lẳng dăm ba cân thịt lợn là nỗi thèm đến rỏ dãi của nhân dân mấy xã Đức Dũng, Đức An và Nga Lộc… Và thế là có anh cán bộ đại đội coi chú lợn của Ban chỉ huy hơn cậu liên lạc của mình (Chú Thảo ơi ! kể lại này không nhằm nói xấu chú đâu mà muốn nói một thời như thế). 

Phạm văn Thảo - Đại đội trưởng đại đội 2 tiểu đoàn 7, mọi người vẫn gọi là “Thảo Đen”,  người có con mắt tinh đời nên đã chọn TQS làm liên lạc. Chọn được cậu liên lạc vừa ý còn khó hơn chọn đi đào tạo sỹ quan chính trị .Người khó tính đến mấy cũng khó tìm ra yếu điểm của TQS. Một hôm TQS ốm không thể nuốt nổi cơm và xin Đại trưởng Thảo báo cháo để ăn. Thảo đồng ý và dặn thêm:
- Cậu báo thêm vài ba suất để làm thức ăn cho lợn!
TQS hý hửng chấp hành và  thầm nghĩ: “Trưa nay được bữa cháo ra trò”. Nào ngờ, vừa ăn được 2 bát, Thảo quát:
- Ốm đau chi mà ăn lắm thế, ăn chừng ấy được rồi, còn lại để cho lợn !
Quyết không để cho TQS ăn thêm, Thảo nhổ vào nồi cháo một bãi nước bọt. TQS buông bát  lặng lẽ vào ngồi bên khẩu AK, nhưng rồi cũng kịp nghĩ lại: “Bắn nó chết mà mình tự sát không chết thì đời không biết ra sao”. Và rồi như có tổ tiên mách bảo, câu nói của người anh con bác nhập ngũ vào tiểu đoàn tôi trước đó một năm vẳng bên tai : “Trong ấy có cụ Phan Sỹ Niêm - Tham mưu trưởng sư đoàn trọng người có học lắm”. Chiều hôm đó TQS liều mạng mang tờ giấy báo trúng tuyển ĐH Luật lên gặp cụ.Sau khi nghe cách trình bày mạch lạc cùng khuôn mặt sáng sủa, dáng vẻ khôi ngô, cụ Niêm phán:
- Bây giờ cho cậu ra đi học thì chưa được đâu, mình sẽ điều cậu lên trung đội vệ binh, công tác ở đó một thời gian, mình sẽ cho cậu đi học… 
- Chú Thảo ơi ! Bây giờ chú có biết cậu liên lạc của chú làm gì không !?

Chưa hết hạn nghĩa vụ TQS được cụ Niêm cho ra quân để đi học thật ! Tốt nghiệp thủ khoa và dễ dàng vào cơ quan nhà nước, làm đến cấp phòng của VKSNDTC nhưng cậu ấy lại một lần nữa vượt rào . Không cam chịu cảnh làm thuê ba cọc ba đồng cho nhà nước. Hơn nữa không thể chịu được nhiều cảnh ngang trái diễn ra mà một người có lương tâm từng chứng kiến nên xin ra ngoài mở công ty riêng. Nay là giám đốc công ty luật Quốc Thái hoạt động rộng khắp trên cả nước. Đồng thời cùng với em trai sở hữu nhà máy bột đá siêu mịn Thọ Hợp - Quỳ hợp Nghệ An với  sản phẩm có chất lượng đứng đầu Việt nam được xuât khẩu chủ yếu cho thị trường Trung Quốc và Ấn độ. Chỉ riêng khoản tiền điện phải trả đã lên tới 2 tỷ đồng mỗi tháng,  xu ất 500 tấn sản phẩm m ỗi ng ày, giải quyết việc làm cho 120 lao động thường xuyên chủ yếu con em dân tộc ít người với mức lương bình quân 8 triệu đồng một tháng cũng đủ thấy quy mô doanh nghiệp ở mức nào

Nơi “địa ngục trần gian” vẫn có những con người nhân ái, đức độ như cụ Niêm, nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ sức lan tỏa nhằm cứu vãn bao sinh linh vô tội phải bỏ xác nơi chiến địa CPC. Ngồi nhẩm tính lại 10 năm tồn tại của Sư đoàn 441 mà ớn lạnh khắp người.  Mỗi năm 3 đợt nh ận qu ân với mỗi đợt 6.000 (sáu ngàn) người th ì Ít nhất phải trên mười vạn thanh niên chủ yếu của 5 tỉnh: Bình –Trị - Thiên, Nghệ an, Hà tĩnh đã được giao cho chiến trận. Trong số đó có biết bao người như TQS ?! Đã cơ quan nào thống kê con số những người trở về chưa nhỉ ? Đó mới đích thực là “Địa ngục trần gian”.

Có người hỏi tôi. Sống trong môi trường ấy làm sao để Tiểu đoàn trưởng tay không nhúng chàm ?
Ngày mới được về đơn vị với chức vụ Tiểu đoàn phó trực tiếp quản lý và huấn luyện quân. Nhìn cảnh anh Nguyễn Văn Đại ( quê Cẩm Quang - Cẩm Xuyên) - Tiểu đoàn phó Hậu cần dong một tân binh đi hết đại đội này đến đại đội khác, trước ngực là miếng cơm cháy to bằng chiếc bánh đa, sau lưng là tấm biển đề dòng chữ: “Em xin lỗi anh chị lợn, nếu ai cũng như em thì anh chị chết đói” .
Chả là vì quá đói, cậu tân binh nọ chạy vào khu vực nhà bếp cướp cháy dành cho lợn để ăn, không may bị anh em nuôi quân bắt được đưa lên giao cho anh Đại và anh ấy đã xử lý bằng cách bêu rếu như vậy. Thấy thế tôi lại gần nói nhỏ vào tai Đại: - Thôi cái trò này đi anh !
Anh ấy cười khềnh khệch: Thôi ! Thôi thì anh nhường cơm anh cho lợn !
Là cấp phó với nhau anh ấy muốn lĩnh vực mình phụ trách bất khả can thiệp. 
Đang mùa đông lạnh buốt, cả Trung đội tân binh mình trần ngụp lặn dưới hồ để mò tìm khẩu súng của ca gác nào đó làm mất. Thực ra súng đâu có mất mà do thiếu ngủ nên lính gác ngủ gật, cán bộ đi kiểm tra phát hiện lấy súng giấu đi, báo động kiểm tra vũ khí và thế là bắt cả Trung đội thức dậy xuống hồ mò súng trong đêm. Biết vậy nhưng chẳng dám can ngăn, nếu can thiệp tay cán bộ nọ vất súng đi thật thì cậu lính gác càng thêm nặng tội.


Tình trạng lợi dụng sức lao động của tân binh diễn ra hầu hết các cấp, các đợn vị. Thậm chí có Tiểu đoàn trưởng quê tận ngoài Bắc vẫn cho các cô gái về thu hoạch mùa cho vợ mình, hơn thế nữa còn điều động lính về đào ao nuôi cá. Đặc biệt đợt huấn luyện tân binh của TP Huế. Một số cán bộ đại đội, trung đội cho lính về trộm để “nhờ” mua khi thì vài đôi Pê-đan xe đạp, khi chiếc lốp, chiếc xăm. Có anh cao tay hơn khi biết bố mẹ ai đó làm việc trong các cơ quan có thể kiếm chác được thì nhờ mua dăm ba tạ xi măng, vài chục cân thép, vài ngàn gạch, dăm mét vải, cân đường, hộp sữa…Trong vài lần được giao đi kiểm tra các đội khai thác gỗ, phát hiện nhiều khuất tất: Khi gỗ nứa cập bến Linh Cảm, cán bộ phụ trách cho tân binh về đơn vị, số gỗ tốt họ đem bán chia nhau, anh nào không lấy tiền thì cho xuôi dòng đưa về nhà riêng. Cách đây vài năm khi đến chơi nhà một Trung đội trưởng cũ quê Nghi Thái - Nghi Lộc, cậu ấy khoe rằng: “Gỗ căn nhà này em kiếm được từ hồi anh mới về đơn vị”.
Biết tất cả nhưng không thể làm gì bởi mình chỉ là cấp phó, hơn nữa đó là tình trạng chung như cha tôi thường nói lúc sinh thời: “Bè lim sào sậy”
Được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng năm 31 tuổi. “Cờ đến tay ai người ấy phất” và tôi đã phất theo cách của riêng mình. Hình ảnh những tân binh dưới quyền tôi là hình ảnh của tôi 12 năm về trước. Có điều ngày ấy cũng đói , cũng lao động vất vả, huấn luyện mệt nhọc, cũng được “Rèn cho ra bã” nhưng không phải chịu nhiều cực hình như tân binh nơi “đia ngục trần gian” này. Tôi thầm nghĩ : Nếu ngày ấy bị “Rèn” như ở đây thì mấy anh cán bộ khung đi giao quân sẽ không có cơ may trở về đất Bắc.
Một điều không thể không nói đến đó là do lao động quá nặng nhọc, rèn luyện quá căng thẳng, ăn uống kham khổ nên nhiều tân binh  giả đau, giả ốm để được nghỉ ngơi. Chính sự gian dối đó đã dẫn tới nhiều cái chết oan nghiệt. Nhiều tân binh đau thật nhưng cán bộ cho là giả vờ nên vẫn bắt đi tập, đi lấy củi… khi đã không thể chịu được đưa đi cấp cứu thì đã muộn. Tôi vẫn nhớ như vừa xẩy ra hôm qua, đó là đợt dịch viêm não Nhật Bản. Chỉ khi Phòng Quân y Quân khu 4 và Bộ Y tế vào cuộc sau 2 tháng nội bất xuất ngoại bất nhập mới dập được dịch. Tuy nhiên 5 tân binh đã tử vong, trong đó có 3 tân binh quê ở QK9 và một em quê Song Lộc- Can Lộc là học sinh giỏi quốc gia.

Tự coi mình như người anh cả trong gia đình tôi quyết định thay việc quản lý tân binh từ biện pháp hành chính sang quản lý bằng tình thương và trách nhiệm. Để tránh tình trạng bỏ ngũ hàng loạt tôi quyết định giấu Sư đoàn cấp phép cho tân binh về thăm nhà  mỗi đợt ba bốn chục, mỗi đợt 5- 6 ngày . Tân binh cũng như tôi 12 năm về trước, chỉ được nghỉ lại Nghi Vạn một ngày nhưng vẫn băng đồng, vượt đồi núi để về gặp người yêu. Với cách làm đó chưa đầy 2 tháng toàn bộ lính đã được về thăm nhà. Một điều không thể ngờ được là tất cả những tân binh được nghỉ phép không ai cắt cơm để lấy gạo về, mỗi đợt huấn luyện dư kho trên 2 tấn gạo. Tiền thu được từ việc bán gạo được dùng vào nhiều việc phục vụ đời sống vật chất , tinh thần chiến sỹ. Riêng cán bộ sỹ quan một tháng cấp thêm 15 kg gạo mang về cho vợ con. Đồng thời buộc mọi người đến nhà ăn ăn cùng chiến sỹ, chấm dứt tình trạng bếp riêng, kể cả bếp của BCH Tiểu đoàn. Tất cả ăn chung một tiêu chuẩn. Phần tiêu chuẩn của sỹ quan dư ra, được chi trả gấp đôi để ngày nghỉ mang về nhà cho vợ con.
Điện được thắp sáng đến 10h, mua thêm một chiếc tivi, mua máy khâu may vá áo quần cho chiến sỹ. 
Trong một lần vào núi Trà Sơn đi săn và kiểm tra trại bò, nhìn đồng cỏ xanh non rộng dài trên những quả đồi thuộc xã Thượng Lộc cách doanh trại 8km thế là tôi quyết định nâng cấp đầu tư trại bò ngay trong đó để cải thiện cho đơn vị. Khi sư đoàn phát hiện ra thì đàn bò đã lên đến 4 chục con. Lợn  nuôi ở các đại đội được đưa về Tiểu đoàn nuôi tập trung cùng với số lợn thực phẩm bắt về. Nhìn đàn lợn 5- 6 chục con béo múp, nhiều anh trợ lý Sư đoàn xuống kiểm tra đơn vị cứ ngỡ như mơ.

Từ thực tế những lần đi kiểm tra đôn đốc các tổ khai thác gỗ, tôi nhận ra một điều: Nhân dân mấy xã dọc sông Lam như Nam Quang, Nam Hồng, Hưng Lĩnh ,Hưng Long… đúc kết quả không sai “Thứ nhất buôn bè - Thứ nhì buôn chè bến Rộ”  Buôn chè bến Rộ chưa trải nghiệm nên chưa biết thế nào, nhưng buôn bè thì quả là nhanh giàu thật. Thế là thay việc dùng tân binh đi chặt phá rừng, làm theo kiểu “nước sông công lính”, được sự thống nhất cao độ của BCH Tiểu đoàn và Đảng ủy chúng tôi mượn tiền lương hàng tháng của sỹ quan để lên đầu nguồn mua gỗ của dân bản địa rồi thuê họ cánh bè về xuôi để bán. Trong một tháng đồng vốn quay vòng 2 lượt, Đúng là một vốn 4 lời. Sỹ quan ai cũng phấn khởi vì tuy lương có chậm một tháng nhưng tiền được trả gấp 1,5 lần, những người trực tiếp làm nhiệm vụ được hưởng thêm 10% lợi nhuận. Rất nhiều anh thích đi buôn bè hơn ở nhà huấn luyện. Khi có được đồng tiền trong tay, thay vì đưa tân binh đi lấy củi, tôi cho người vào ga La Khê, Tân Ấp mua củi của dân thuê tàu hỏa chở về ga Đức Lạc, rồi mua gỗ tốt tổ chức đóng đồ gia dụng cho sỹ quan. Nói tóm lại là đã làm những việc mà đảng viên không được làm để cải thiện đời sống cho cán bộ chiến sỹ trong Tiểu đoàn, thậm chí nhiều trưởng phó , trợ lý các ban phòng trên sư đoàn bộ cũng được “hưởng xái”, người thì biếu con lợn con, người thì vài chục kg gạo, nhi ều khi có khách họ lại chạy xuống tiểu đoàn 8 xin nhượng một vài cân thịt lợn. 

Riêng việc chăm lo sức khỏe cho tân binh chúng tôi đã làm một việc mà sau đó một số Tiểu đoàn cũng h ư ởng ứng theo. Tất cả những ai kêu đau đều được đưa lên Quân y Tiểu đoàn kiểm tra và chăm sóc trực tiếp. Những người đau yếu thực sự được chăm sóc tận tình, những người giả vờ đau cũng ngại ngùng trước sự quan t âm đó nên cũng tự nguyện xin về đơn vị công tác.
Những việc làm của BCH Tiểu đoàn chẳng giấu được mãi và rồi một ngày cuối năm 1986. Sư đoàn tổ chức thanh tra tiểu đoàn tôi, yêu cầu Tiểu đoàn trưởng phải trả lời mấy câu hỏi:
 - Tiền ở đâu ra để có đàn bò 40 con nuôi giấu trong xã Thượng Lộc? Thức ăn ở đâu để duy trì đàn lợn 5-6 chục con
- Tiền ở đâu ra để chạy máy nổ thường xuyên ? Tiền đâu ra để mua máy khâu may vá áo quần cho tân binh.
- Tiền đâu ra để mua gỗ đóng đồ gia dụng cho sỹ quan? 
Tôi đã trả lời không hề giấu diếm điều gì.

Sau 4 ngày quần đảo hết mọi sổ sách nhưng vẫn không tìm ra chứng cứ nào có sự tư túi của BCH Tiểu đoàn và đặc biệt là tôi, cuối cùng đoàn thanh tra thống nhất kết luận: “ Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 có nhiều việc làm sai trái vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính, nhưng không có biểu hiện lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi cho bản thân. Những việc làm của BCH tiểu đoàn 8 cần xử lý theo hướng: Thu về công quỹ 8.000 đồng tiền mặt (quỹ đen). Đem vào sổ sách quản lý 40 con bò tại trại Thượng lộc.( thực chất là họ đã tịch thu một khối tài sản lớn của tiểu đoàn). Sau đợt thanh tra đó tôi được sư trưởng mời lên nhắc nhở, cuối cùng ông ấy kết luận: “Tôi khuyến cáo những việc làm của đồng chí”
Ra về nghĩ bụng: Trong các hình thức kỷ luật của quân đội chẳng có hình thức nào “khuyến cáo” cả.
Tuy nhiên sau đó 3 tháng tôi có quyết định điều về tổ viết sử của Sư đoàn, trong buổi giao nhiệm vụ, chủ nhiệm chính trị dõng dạc:
- Khi nào cậu hoàn thành cuốn lịch sử Sư đoàn Đồng Lộc sẽ cho cậu chuyển ngành.
Họ đã cách chức tôi một cách thật tế nhị.
Tôi đã cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để nhanh chóng tránh xa môi trường mà tôi đã ngán như ngán “cơm nếp choẹt” bấy lâu nay.
Trong hơn 8 năm sống và công tác tại Trung tâm huấn luyện 441- Sư đoàn Đồng Lộc, ấn tượng sâu sắc nhất để  lại trong tôi là Tư lệnh quân khu Nguyễn Quốc Thước . Trong lần dẫn đầu đoàn cán bộ của 5 sư đoàn về “hội nghị đầu bờ” tại Tiểu đoàn tôi, yêu cầu báo cáo những việc tôi đã làm để có kết quả chỉ tiêu giao quân khóa nào cũng đạt hầu như 100%. Sau nh ững thủ tục thông thường, thay mặt cho tập thể Đảng ủy, BCH Tiểu đoàn, tôi báo cáo: 
- Thưa các Thủ trưởng,  tiểu đoàn tôi không có lính bỏ ngũ vì tôi cho anh em về trước lúc bỏ ngũ.
Vừa nói được chừng ấy cả hội trường đã không còn yên lặng.  Anh Trương Đình Thanh, lúc đó đang là Sư trưởng 342 giật áo và nói vừa đủ tôi nghe:
- Mi có bị điên không rứa ?(Anh ấy là anh kết nghĩa) 
Tôi gạt tay anh và tiếp tục:
- Xin các Thủ trưởng bình tĩnh, các thủ trưởng đã mất công đến đây hãy chịu khó nghe tôi nói hết. Trước tiên các thủ trưởng cần hiểu đúng hai chữ đào ngũ và bỏ ngũ, lính của QK4 chúng ta không đào ngũ mà các em chỉ bỏ ngũ về một thời gian, nhằm thỏa mãn ý thích cá nhân. Nếu để các em bỏ ngũ họ sẽ không ý thức được ngày trở về đơn vị. Tôi cấp phép cho các em về trong một thời gian có hạn định, số đi trước đến hết mới cho số sau về là để các em tự quản lý lấy nhau. Hơn nữa giấy phép có chính quyền địa phương xác nhận là đưa các em vào sự quản lý của chính quyền địa phương, buộc các em hết phép phải vào đơn vị...Tôi nói rất nhiều nhưng mọi người vẫn chú ý lắng nghe. Cuối cùng miệng nói mà nước mắt cứ chảy tràn:
- Các thủ trưởng biết rồi đấy, huấn luyện các em xong là đưa sang mặt trận 479, tôi đã hai  lần đưa các em sang đó. Năm trước đưa các em sang, năm sau gặp lại có em đã đảm nhiệm quyền đại đội trưởng rồi, nói như vậy để các thủ trưởng biết mức độ ác liệt hy sinh lớn đến nhường nào. Tôi cho các em về như một nghĩa cử “Nghĩa tử là nghĩa tận” ,các em được gặp người thân lần cuối. Nếu các thủ trưởng bảo đảm quân của tôi ra đi và trở về 100% thì tôi xin nhận kỷ luật trước các thủ trưởng.
Anh Thanh lại một lần nữa kéo áo để tôi ngồi xuống.
Tôi vẫn cố nán lại để nói lời cuối cùng:
- Tôi tin rằng các thủ trưởng chẳng nỡ kỷ luật tôi đâu, bởi suy cho cùng nhiệm vụ huấn luyện và chỉ tiêu giao quân luôn đặt lên hàng đầu, xét về góc độ đó thì tôi đã hoàn thành xuất sắc. 
Hội nghị kết thúc trong bầu không khí nặng nề, chẳng ai phát biểu gì thêm. Tư lệnh quân khu kết luận:
- Chúng ta cứ nghe đồng chí Tiểu đoàn trưởng nói vậy đã, sẽ có kết luận sau.
L
úc chia tay ra về anh Thanh hỏi anh Trần Lưu Chử -  Sư trưởng 341:
- Anh còn nhớ hắn không ?
Anh Chử chưa kịp nhớ ra anh Thanh đ
ã nói ngay:
- Hắn là công vụ của tôi, vào đợt lính sinh viên. Là người tháp tùng anh rút lên theo đường Hói Mít cuối năm bảy hai đấy. 
Anh Chử ôm tôi thật lâu, vỗ nhẹ vào vai:
- Mi giỏi ! Mi giỏi !
Rồi tôi cũng kịp nhắc lại chuyện ông đã xử sự với tù binh năm nào.
Không biết các Sư đoàn khác về dự hội nghị làm gì sau đó, còn riêng Sư đoàn tôi, các khóa huấn luyện sau đều thực hiện theo cách mà chúng tôi đã làm.
Thiết nghĩ: Một quân đội dù số tướng lĩnh nhiều đến mức mà gỡ hết sao trên cầu vai họ, tung lên bầu trời thành dải ngân hà đêm mùa hạ, mà không có được sự đồng lòng của binh sỹ thì sức mạnh chiến đấu cũng sẽ bằng không !!!
Cán bộ chiến sỹ thời nay đối xử với nhau thế nào ?
Không biết các vị tướng trẻ hiện nay có ai trải qua giai đoạn 
huấn luyện tân binh không nhỉ ?
Bao ký ức lại ùa về.

(Còn tiếp)
Tác giả : Đinh Hữu Hanh
Biên soạn : Nguyễn Kỳ Nam

Bài đăng nổi bật

Mù Cang Chải mùa lúa chín