Thật trớ trêu, năm 2014, khi đi vào Phú Lộc xác định nơi Trạm phẫu thuật tiền phương đừng chân cuối năm 1972, gặp lại mấy du kích thời đó, tôi hỏi :
- Mấy ngôi mộ trên dốc Hói Mít đã cất bốc hay chưa ?
- Tất cả các ngôi mộ chôn rải rác dọc đường rút lên của quân ta năm ấy đều đã bốc và đưa về nghĩa trang của Huyện .
Vậy là cậu Quỳnh, cậu Kính, cậu Tấn và các đồng đôi khác của tôi cùng nằm chung với 2 tù binh năm nào. Khi nghe kể lại chuyện này, một số người bất bình bảo :
- Sao lại lộn xộn như thế được.
Tôi lại nghĩ khác: Phía chúng ta, những NGƯỜI NHẬP NGŨ, còn bên kia là KẺ BỊ BẮT LÍNH . người nhập ngũ và kẻ bị bắt lính chẳng có tội tình gì, cũng chẳng thù oán gì nhưng phải đấu súng bắn giết lẫn nhau, nay họ đã chết, người Việt có câu : Nghĩa tử là nghĩa tận. Hơn nữa đều đã trở thành những Liệt sĩ vô danh, còn có gì khác nhau nữa đâu mà phân biệt đối xử.
Tuy không cấp chỉ huy nào nói ra cụ thể, nhưng theo tin đồn cùng với hướng và đường hành quân, anh em trinh sát phán đoán: Trung đoàn đang được cấp trên cho lui về tuyến sau để an dưỡng và củng cố lực lượng. Nghe đâu sẽ ra đến QK4. Ngày thứ 2 đã vượt qua đường HCM tại Km 103 nằm giữa A Sầu và A Lưới. Con sông A Sáp thật nên thơ, nước trong xanh nhìn thấu đáy. Lội qua con sông nước chỉ ngang thắt lưng, nếu được dừng chân thỏa sức ngụp lặn sau hai ngày hành quân và sau gần tháng trời chui rúc sình lầy nơi đồng bằng Phú lộc thì còn gì sướng bằng. Nhưng động cơ sẽ được ra Bắc làm mọi người quên đi tất cả, thậm chí chẳng cần nghỉ giải lao như khi hành quân đi vào.
Nơi rừng già hoàng hôn buông sớm, đại đội trinh sát được phân công nghỉ lại một bản dân tộc ít người. Anh Lê (C trưởng) cùng tôi, Hiếu (khoa lý), Lương (liên lạc) và Lính (khoa văn) nghỉ tại nhà hai mẹ con cô gái có tên Ên, làm công tác phụ nữ của bản. Vừa bước chân lên cầu thang, mấy cậu lính trẻ chúng tôi như người mất hồn, chủ nhà là một cô gái chừng 29-30 tuổi, chỉ có tấm thổ cẩm quấn quanh che từ bụng trở xuống, bộ ngực căng tròn như 2 chiếc bát úp nhảy múa theo từng nhịp đi trên sạp. Mắt anh nào cũng lấm la lấm lét, đảo ngược đảo xuôi nhưng rồi vẫn biết dừng lại lâu nhất nơi cần dừng. Riêng cô chủ vẫn xởi lởi như chẳng có việc gì xẩy ra. Phía góc nhà mẹ cô vẫn phô ra bộ ngực trần chảy dài, đen sạm.
Tối hôm ấy chúng tôi quây tròn bên bếp lửa, anh nào cũng muốn chen ngồi đối diện để được ngắm toàn cảnh báu vật trời ban. Tuy không trắng trẻo nõn nà như gái Kinh, nhưng giữa nơi rừng thẳm sương dày, nơi khỉ ho cò gáy mà có được thế này thì cũng chẳng khác chi phần thưởng cao quí mà Chúa ban thưởng cho những thằng lính vừa từ cõi chết trở về.
Ban đầu chẳng ai nói gì, mà cũng chẳng cần nói gì, thậm chí không có mồm cũng chẳng sao, chỉ cần đôi mắt phát huy hết tinh lực là đủ. Nhưng rồi với sự bạo dạn của chủ nhà cộng với sự từng trải của anh Lê, người đã có vợ và 2 con nên bầu không khí cũng bớt đi trầm lắng.
Vào chuyện anh Lê hỏi :
- Ở độ cao này lạnh thế, khi đi nương rẫy đồng bào mặc thế không lạnh à?
- Không, quen rồi. Con trai mặc khố, con gái mặc thế này thôi. Chỉ che từ bụng thôi. Ngực không ai che, ngực ai cũng thích mà. Con gái cũng thích, con trai cũng thích, ông già cũng thích. Ai cũng thích thì sao lại che. Người dân tộc mình có câu : “Vú đàn bà là quà cả bản” mà.
Chả trách gì mà cô ấy là Hội trưởng phụ nữ của Bản, cô nói tiếng Kinh còn ngọt hơn dân Nghi Lộc quê tôi.
Có thể cô ấy nói đúng, người Kinh cũng có câu “ Vú đàn bà là quà đàn ông”. Có điều người Kinh không thẳng tính và minh bạch như họ.
Anh Lê đùa:
- Chồng Ên đi công tác lâu ngày vậy, nó theo cô nào Ên có ghen không?
- Không! Ta không ghen ! Nó cải thiện thì ta cũng cải thiện.
Lại thế nữa, còn biết cả "cải thiện".
- Ở nơi heo hút thế này biết cải thiện với ai ?
- Có chứ, khi nào bộ đội đi qua thì ta cải thiện, ta ưng bộ đội hung.
Nói rôi cô ôm lấy đầu gối anh và cười như nắc nể. Cặp bồng đào trùm lên một bên đầu gối anh ấy rung rung như thể cũng cười theo phụ họa . Cô ngước nhìn anh và hỏi :
- Đêm nay mày có dám vào cải thiện cùng ta không.
Chúng tôi nhao nhao vỗ tay :
- Hoan hô chị Ên ! Hoan hô chị Ên.
Bị tấn công bất ngờ anh Lê lúng túng, mặt ngồi hong bên bếp lửa đã đỏ lại càng đỏ thêm. Bỗng anh đứng dậy :
- Thôi, đi ngủ đi để mai còn hành quân.
Và anh ấy mắc võng đi nằm thật, chúng tôi buộc phải làm theo. Mặt anh nào cũng buồn như vừa mất ví.
Ngoài trời mưa như trút nước.
Trước lúc chui qua tấm thổ cẩm để vào ngủ Ên còn cầm lấy một đầu võng anh Lê lắc lắc :
- Nhớ đấy ! Ên chờ !
Không biết cô ấy nói đùa hay nói thật.
Ên vào buồng một lúc thấy bà mẹ ôm mảnh chiếu gai trải gần bếp lửa, chưa được bao lâu đã nghe bà ngáy như cưa gỗ.
Đêm ấy chẳng anh nào ngủ được, không ngủ được bởi nhiều lý do nhưng có một lý do là để rình xem anh Lê có dám chui qua tấm thổ cẩm kia không ?
Trời còn mờ sương, anh Lê đã bị đánh thức dậy để nhận nhiệm vụ mới: Khẩn trương dẫn đại đội quay lại, tung anh em ra để nắm tình hình đối phương tại các huyện Hương Trà , Hương Thủy, Bắc Phú Lộc và TP Huế để làm cơ sở cho toàn Trung đoàn đánh chiếm giành đất cắm cờ trước khi hiệp định Pa ri ký kết.
Việc trở ra Bắc an dưỡng nay thành ảo mộng.
Khi hành trang đã gọn gàng, cậu Hiếu (nay là PGS-TS dạy tại trường ĐH Khoa học Huế) thành thực khai báo:
- Đêm qua lúc bên bếp lửa “ thằng vô giáo dục” của tao nó cứ oằn mình muốn chui ra khỏi nơi giam giữ.
Nó thành thực thế thì chúng tôi cũng chẳng cần chi phải giấu :
- Tao cũng thế ! Tao cũng thế !
Anh Lê nghe thế trừng mắt quát:
- Mấy thằng súc sinh, cô ta bằng mấy lần chị chúng mày rồi đấy.
Ừ thì mấy lần chị nhưng thấy thế trong lòng cũng rạo rực. Mấy thằng chúng tôi lần đầu tiên trong đời được chiêm ngưỡng báu vật của tạo hóa và biết đâu cũng là lần cuối. Và đúng thế thật, cậu Lính (Khoa văn) đã bị phục kích và chết trên đường đi nắm địch khi vừa qua Dốc Dinh, đến nay vẫn chưa tìm được mộ.
Chia tay chúng tôi, chị Ên buồn rầu bắt tay từng người. Anh Lê là người chị đến sau cùng.
- Không ! Chị ấy không bắt tay, chị ùa vào ôm lấy anh và khóc nức nở. Trước hành vi quá táo bạo và bất ngờ, toàn thân anh như cứng lại, 2 tay giang ra giật giật như 2 cánh con gà cắt tiết đến gian đoạn giãy chết, Ên như ôm chặt hơn chẳng muốn rời ra . Bà mẹ đi xuống cầu thang gỡ tay con gái và ôm con vào lòng, bà nói tiếng Kinh chưa thạo nhưng ai cũng nghe ra :
- Mày tệ lắm. Con tao muốn xin mày đứa con mà. Năm nay đã 29 mùa rẫy còn lấy ai được nữa ?.
Nghe xong anh ấy bỏ đi như chạy
Cậu lính nói nhỏ vào tai tôi:
- Sao chiều hôm qua chị ấy bảo có chồng rồi?
- Nhiều tuổi rồi thì phải nói thế chứ sao.
Mấy đứa chúng tôi lại như những kẻ tu hành, chạy lại ôm 2 mẹ con:
- Thôi chúng con chào mẹ , chúng em chào chị.
Bà dìu con lên gác, tiếng nức của chị vẫn chưa thôi.
Chứng kiến cảnh vừa rồi bất giác tôi nhớ lại câu chuyện ông Tiến làng tôi thường kể cho mọi người nghe mỗi khi dân làng tụ tập về sân kho hợp tác xã tuốt lúa,chia rơm. Tuy học chẳng được là bao nhưng ông có biệt tài mở miệng là thành vần thành điệu. Ví như hôm ban quản trị công bố phương án ăn chia một công chỉ được nửa cân lúa, ông ấy buộc miệng :
“ Xã viên mua bị
Quản trị mua bồ
Thóc đổ vô mô
Đổ bồ quản trị”
Hoặc thấy cô nào tiến thân bằng “tài sản cố định” là ông lại nghêu ngao lẩy Kiều:
“Cô kia như điếu Ủy ban
Cán bộ cả làng ngó ngoáy châm châm”
Chuyện ông kể rằng : Có ông bí thư Đảng ủy xã nọ, vợ ông là Hội trưởng Hội Phụ nữ xã, hai ông bà chỉ sinh được một cậu con trai, cũng muốn sớm có cháu nối dõi tông đường nên đã sớm chọn vợ cho con. Có cô gái làng bên đẹp người, siêng năng, tháo vát và có phần giảo hoạt, hơn cậu 2 tuổi “nhất gái hơn hai” . Cưới dâu về ông bà ưng ý lắm.
Trong thời cuộc: “Tất cả cho tiền tuyến”. Tuy con một nhưng ông vẫn động viên con trai:
- “ Tổ quốc lâm nguy, thất phu hữu trách” con là con của bố mẹ, người đang nắm giữ các cương vị chủ chốt của xã, vẫn biết để con ở nhà bố mẹ yên tâm hơn nhưng cũng không thật sự rộng miệng ăn nói với xóm làng, tốt nhất con nên đi bộ đội cho bố một vài năm để cho con chân cứng đá mềm, sau này về còn cơ cấu làm Xã Đội trưởng hay Trưởng Công an, tương lai còn có thể thay thế bố.
Có anh con trai nào nỡ lòng từ chối khi nghe bố đặt vấn đề như vậy và cậu vui vẻ khoác ba lô lên đường. Ở nhà vợ cậu cũng nhanh chóng leo lên chức Bí thư Đoàn xã . Không biết mồ mả nhà ông sập hay sao mà cô con dâu dám nháy mắt đưa tình cả với bố chồng. Với kinh nghiệm của người làm công tác Đảng nhiều năm . Với sự từng trải của người đàn ông xấp xỉ tuổi 50. Ông biết đèn xanh đã bật.
Rồi chuyện gì đến sẽ đến, bụng cô con dâu cứ lớn dần ra. Được một năm thì cậu con trai về phép, nó biết ngay cái thai trong bụng vợ không phải là con mình. Trâu có chửa cũng chỉ cộng trừ 330 ngày là đẻ. Cậu ta dọa nếu không khai sẽ giết chết cả 2 mẹ con, không còn cách nào khác cô đành thú tội.
Cái khó là sinh con ra xưng hô như thế nào cho phải đạo, thực chất cái thai trong bụng vợ là em ruột cậu, khi vợ cậu đẻ ra lại là con cậu, vợ cậu thực chất là vợ bố mình. Xưng hô như thế nào đây ? Khó quá.
Bà Hội trưởng Phụ nữ xã từng hòa giải cho nhiều cặp vợ chồng, nhưng khi gặp trường hợp nhà mình thật nan giải. Nhưng rồi bà cũng tìm ra cách giải quyêt xem ra có lý có tình, bà cắn răng nói với chồng:
- Đã đến nước này thì ông phải ra quyết định thành lập chi bộ lâm thời, nhà mình cả 4 người đều là đảng viên, thừa điều kiện để thành lập chi bộ rồi đấy.
Bước vào cuộc họp bà là người vô can nên được cử làm chủ tọa, bà nói :
- Khi biết chuyện này mẹ cũng đau lòng lắm nhưng để giữ thanh danh cho Đảng con cũng nên chín bỏ làm mười, nếu con cứ khăng khăng làm rõ mọi chuyện thì cái chức Bí thư của bố không còn, còn mẹ thì chẳng biết chui đầu vào đâu, vợ con lại thành vợ của bố, con lại hai bàn tay trắng.
Mẹ đã nói đến thế mà cậu vẫn không đồng ý, cuối cùng phải dùng biện pháp bỏ phiếu kín. Kết quả:
1 phiếu trắng
3 phiếu nhất trí để con dâu sinh con và khi lớn lên cho phép nó gọi cả nhà bằng “ Đồng chí “
Mặc dầu uất đến nghẹn cổ nhưng cậu vẫn phải chấp hành bởi theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
Nghe xong câu chuyện cậu Hiếu nhận xét: Dân mình hay thật. Ở hậu phương ông Bí thư Đảng ủy dám vượt qua luân thường đạo lý, bất chất mọi điều lệ khắt khe của Đảng để thỏa mãn dục vọng cá nhân, còn ở chiến trường người lính đã vượt qua bao bom đạn lại không dám vượt qua tấm thổ cẩm kia để đáp ứng một nguyện vọng đời thường nhỏ nhoi của một người con gái.
Chuyện ông Tiến chỉ có vậy, nhưng khi kể lại tôi cũng thêm chút gia vị màu mè cho thêm phần hấp dẫn. Mọi người mải mê nghe, mê mải bước. Dòng sông A Sáp đã hiện ra trước mặt, con sông bắt nguồn từ miền tây tỉnh Thừa Thiên Huế nhưng lại đổ về đất Lào. Thác không dài nhưng khi lũ về sẽ có nhiều thác dốc và nguy hiểm, mới hôm qua thơ mộng là vậy chỉ một đêm mưa ròng nó trở nên như con quái vật. Nhiệm vụ đang chờ phía trước, không thể chậm trễ , Ban chỉ huy Đại đội tìm một khúc sông nước chảy tương đối chậm, anh Lê ra lệnh:
- Vượt sông !
Mọi người nhanh chóng mở bồng lấy phao bơi để vượt sông, gọi là phao chứ thực ra chúng tôi tận dụng chiếc túi ni lông bọc ngoài bao gạo Trung Quốc để dùng. Thật mau lẹ, chẳng mấy chốc toàn bộ chiếc bồng và khẩu AK báng gập đã tháo băng nằm gọn trong chiếc túi, miệng bao được buộc chặt bằng dây cao su, đã có dăm ba người đẩy ra dòng nước, mọi người nhìn nhau cười khích lệ. Ra đến giữa dòng thì chiếc phao của tôi nặng chịch, biết là phao đã bị thủng nước vào, nếu bỏ phao mà thoát thân thì quá dễ dàng, bởi hồi còn học cấp 3 Nam Đàn 1 tôi từng đi lao động đắp đê 42. Sông Lam rộng thế mà tôi từng bơi hai lượt đi về. Nhưng trong ấy còn khẩu AK, mà lại là AK bắng gập, chỉ dành riêng cho lính trinh sát, người sống mà súng mất thì chẳng khác chi tội chết, bờ bên kia nhiều người đã qua sông. Tôi đành kêu cứu ! Mấy người nhanh chóng tháo dây võng nối dài, anh Thái (Đặng Văn Thái quê Tứ Xuyên, Tứ Kỳ, Hải Dương) buộc một đầu dây vào bụng lao ra dòng nước, khi anh nắm được tay tôi thì miệng thác chỉ cách vài chục mét. Khi đã hoàn hồn, tôi quay thều thào :
- Nếu các anh không nhanh thì em đã chết trôi. Anh Thái đùa :
- Nếu để cậu chết thì còn ai kể chuyện Tam Quốc và Thủy Hử cho mọi người nghe.
Lần thứ 3 tôi thoát chết.
Hành quân về đến Nam Đông - Khe Tre, địa điểm tập kết của Trung đoàn trước lúc vào chiến dịch. Ban chỉ huy Đại đội Trinh sát chọn tôi làm liên lạc thay cho cậu Lương người Hà Tĩnh. Từ đây công việc lại thêm nặng nề bởi ngoài nhiệm vụ của một trinh sát viên còn phải làm thêm bao công việc khác, kể cả việc cơm bưng nước rót, nhưng có một việc mà tôi thật không ngờ : Cùng Chính trị viên Đại đội kiểm duyệt thư từ Bắc gửi vào bằng cách : Thư nhận từ Trung đoàn bộ về, đem rải ra trên mặt đất dưới chỗ ông ấy nằm, chờ ngấm hơi nước rồi cẩn thận bóc ra, những thư nào có nội dung ủy mị, ông ấy sẽ giữ lại. Năm 2013 khi vào TP Hà Tĩnh thăm cậu Lương (Thương binh hạng 1) sau bao nhiêu năm mất trí nay dần tỉnh lại, cậu ấy thành thật bảo : Thư con H. người yêu mày khi nào tao cũng đọc trước.
Chả trách gì mà có anh cả năm chẳng nhận được bức thư nhà nào.
|
Ảnh minh họa |
Chiến dịch đánh chiếm giành đất cắm cờ trước lúc hiệp định Pari ký kết diễn ra thật khẩn trương. Chiến dịch này do Sư đoàn 324 là đơn vị chủ công, Trung đoàn tôi có nhiệm vụ phối thuôc bởi Trung đoàn 6 hao tổn lớn trong chiến dịch đánh Phú Lộc chưa có lực lượng bổ sung. Đại đội trinh sát lúc này chỉ còn 26 người chia thành 7 tổ tung ra nắm địch trên các hướng. Tôi cùng Hương -Thạch Hà, Tân (Cẩm Xuyên), cả 3 đều sinh năm 1952 được giao nhiệm vụ đo đạc tính toán lượng bộc phá cần dùng để công binh phá sập cầu La Sơn. Hương và Tân nguyên là lính pháo binh đang nhàm chán với công việc suốt ngày lau vũ khí, thỉnh thoảng tham gia chiến dịch bắn dăm bảy quả đạn nổ tận đâu đâu nên trốn đơn vị chạy ra tuyến trước đầu quân cho E6, sau khi ban bảo vệ Trung đoàn xác minh biết Trung đoàn pháo binh có 2 lính “Đào ngũ”, Trung Đoàn trưởng lệnh cho hai thằng lì lợm ấy tăng cường cho trinh sát.
Cậu Tân sòng phẳng lắm :
- Tao, Tổ trưởng đi đầu ! Hương 71 đi giữa ! Hanh 72 đi sau cùng. Đi thưa ra.
Men theo mé đường 14, vừa lên đến đầu Cầu Gỗ thì một tia chớp lóe lên, cậu Tân bị vấp mìn, tôi nhanh chóng nằm xuống. Khi biết mình không bị sao tôi vụt đứng dậy chạy lên tìm Tân, tôi lặng người nhìn Tân bê bết máu và đã tắt thở. Cậu Hương kêu lên:
- Tao bị vào đùi.
Theo nguyên tắc “Đưa thương binh ra trước, lấy tử sĩ ra sau”, tôi dìu Hương ngược đường 14 chạy về hướng rừng xanh, khi đã an toàn tôi đặt Hương vào bụi rậm, lấy ống nhòm rẽ lá nhìn về hướng Cầu Gỗ, chiếc xe jeep chạy tới đỗ đầu cầu bên kia, 3 tên lính VNCH nhảy xuống, chẳng khó khăn gì chúng phát hiện ra nơi Tân nằm, qua ống nhòm mọi việc diễn ra như ngay trước mắt mình, ngỡ như đưa tay ra là nắm bắt được. Một thằng trên xe bước xuống lấy dây buộc vào cổ chân Tân, đầu kia hắn buộc vào đuôi chiếc xe rồi lao đi, khi xác Tân đã nằm giữa đường hắn giơ tay ra hiệu cho xe dừng lại, chân đi dày đạp lên trán, rồi giơ cao báng khẩu súng AR-15 nện mạnh xuống hàm răng cậu ấy, một vật gì tung ra, hai thằng trên xe nhảy xuống tranh nhau. Tôi chợt hiểu ra : Thôi chết ! Cậu ấy có chiếc răng bằng vàng.
Lòng tôi quặn thắt ngỡ như chiếc báng súng kia đang đập nát tim mình.
Chúng tiếp tục kéo lê thi thể Tân trên đường chạy về hướng La Sơn, rất may là chúng chạy chậm cố tình để dân đi đường còn xem, nếu chạy nhanh đầu cậu ấy đã nát thành cám mất. Mấy ngày sau được cơ sở báo lên: Xác anh giải phóng đã đưa về đặt tại ngã ba Quốc lộ 1 và đường vào sân bay Phú Bài, suốt ngày có lính canh, trên thi thể là tấm biển đề dòng chữ: "SỐ PHẬN NHỮNG KẺ LÀM TAY SAI CHO BẮC VIỆT" nhằm răn đe những ai có ý định chạy lên rừng theo Cộng sản. Một tuần sau do xác phân hủy bốc mùi hôi nên chúng cho dân đưa đi chôn cất. Năm 1979 Tân được qui tập về Nghĩa trang huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 2011, nhận được điện của Hương báo cho biết gia đình đã tìm được mộ đưa về xây lăng tại nghĩa trang gia tộc. Chẳng mấy khó khăn để hai chúng tôi tìm ra nhà cậu ấy. Cả làng ai cũng vui khi biết 40 năm xa cách nay gia đình được đoàn tụ. Nếu không được chỉ dẫn chúng tôi sẽ nhầm là rạp nhà ai dựng lên làm đám cưới, 3 gian rạp tinh tơm, gian trên cùng đặt chiếc tiểu sành phủ cờ Tổ quốc, bốn cựu mặc lễ phục bồng súng đứng bốn góc trông uy nghiêm chẳng khác gì lính cảnh vệ. Cảm giác đầu tiên khiến tôi thêm xúc động: Cán bộ địa phương thật chu đáo !
Thấy chúng tôi đến, bố cậu Tân vui như con sống lại trở về. Ông bắt tay hết người này đến người kia, gặp ai ông cũng cười mừng rỡ. Đã 82 tuổi mà tiếng ông vẫn thật giòn. Cũng vừa tới bữa cơm trưa, cứ 6 người một một bàn ông bắt phải ngồi, không ngồi ông không cho về. Bữa cơm không thịnh soạn như mân cưới nhưng cũng có thịt gà, thịt lợn, canh rau. Ông cầm chai rượu đi hết mâm này mâm khác chúc tụng. Nhìn ông nước mắt tôi lại trào ra, ông phát hiện được :
- Đừng khóc con, không việc chi mà phải khóc.
Nghe vậy tôi lại khóc to hơn. Ông ôm tôi giới thiệu với mọi người:
- Hắn cùng đơn vị với thằng Tân, yếu đuối ri mần răng mà sống về đây được ?
Tôi không còn làm chủ được mình và khóc nức nở, nhiều người chứng kiến cũng xúc động khóc theo, rồi cả ông cũng khóc ...
Khi đã bình tĩnh lại, tiễn tôi và Hương ra về, tôi hỏi ông :
- Từ trong ấy về tới đây xe chạy có hết một ngày không Bố ?( Lúc này tôi đã gọi ông bằng Bố)
- Sao lại một ngày. Từ Long An về đây sao lại một ngày. Trung tâm họ nhiệt tình lắm con ơi ! Mọi việc từ hương hoa, xe cộ họ lo liệu cả, khi cất bốc mấy chú nó cố tìm cho được chiếc răng vàng, nhưng làm như thế anh em họ lại nghĩ mấy chục năm đi tìm con là để lấy lại chiếc răng vàng à. Bác cho qua. Bốc xong xe chạy hai ngày hai đêm thì về tới nơi.
Tôi cố nín thở hỏi lại :
- Trung tâm nào hả bố :
- Trung tâm ngoài quê Bác con nờ.
Tôi nháy mắt với Hương có ý bảo : Đừng hỏi, đừng nói gì thêm nữa.
Ngày 20/10/2016 vừa rồi nhân chuyến vào Nam Đông - Khe Tre lấy mẫu phẩm để xác định ADN cho một đồng đội, tôi đã ghé vào Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Hương thủy thắp hương cho cậu ấy và đồng đội:
- Tân ơi ! Từ nay cậu đừng về nhà nữa, hãy ở đây cùng anh em đồng đội, nếu cậu về bố không nhận ra nữa đâu, bởi chiếc răng vàng bố làm cho trước lúc nhập ngũ bọn lính bên kia đã mang vào nhà thổ, vả lại bố đã nghe bọn bất nhân đưa nắm đất từ Long an về thay thế cậu rồi...
Chú Ng. Người cùng đi hỏi tôi :
- Sao chuyến đi này anh khóc nhiều thế ?
- Nếu không có Anh ấy, mình đâu có ngày hôm nay.
Bước vào chiến dịch, Trung đoàn tung ra 7 tổ trinh sát thì có 3 tổ gặp sự cố, tổ của Tân thì cậu ấy bị chết thảm thương, tổ Quỳnh thì cả 3 bị phục kích hy sinh không lấy được xác, trong đó có cậu Kính chết khi tôi chưa kịp hỏi cậu ấy đã hành xử với 4 tù binh như thế nào. Tổ của Thiết ( khoa sinh) Lính ( khoa văn) Tương (Yên thành) bị vấp mìn khi vừa vượt qua Dốc Dinh. Thiết kéo được hai đồng đội ra chôn bên đường mòn và lần mò về hậu cứ trong đêm.
- Cậu cố nhớ xem chôn 2 người ấy ở chỗ nào, đường đến Dốc Dinh mình vẫn có thể dẫn cậu tới đó được ? Tôi hỏi Thiết.
- Cậu ấy buồn rầu đáp:
- Lúc chôn xong trời đã tối, tao lần mò suốt đêm mới về đươc làm sao mà nhớ nổi.
Một lần nữa ý đồ chiến dịch
lại không thể thực hiện được, mặc dù có sự phối hợp của Sư đoàn Chủ lực 324.
Ban đầu cả 2 đơn vị cùng đánh chiếm được cao điểm 303, một căn cứ có thể khống
chế được đèo La Hi từ phía nam. Đánh ra tận Đồi Bông, Đồi Nghệ.
Sau khi sư đoàn 324 rút quân, giao lại cho trung đoàn 6 chốt giữ. Những điểm
cao quân ta đóng chốt lại trở thành những cối xay thịt. Không giờ nào ngớt
tiếng pháo từ các trận địa : La Sơn, Giàn Bò, Mũi Né, Hòn Vượn cùng pháo hạm
từ biển tập trung bắn vào theo sào theo mẫu. Thậm chí đến bây giờ cậu Tân (khoa
toán) vẫn in đậm hình ảnh Chính trị viên Tiểu đoàn Bách cùng Duyên (khoa toán)
bị pháo 175 hất tung lên trời.
Không chịu được sự phản kích quá dữ dội của hỏa lực đối phương, ban chỉ huy Trung
đoàn cho các đơn vị bộ binh rút về theo hiện trạng ban đầu.
Tôi cùng Hải (Diễn Châu) và Mạnh là y tá đại đội, ở hậu cứ chẳng cần chăm sóc
ai nên cũng được phân đi theo chúng tôi cho đủ tổ 3 người để tăng cường cho K1.
Khi dẫn tàn quân rút chạy vượt qua đèo La Hi đi qua Vũng Tròn gặp thác nước đẹp
như mơ. Có lẽ trời thương mấy thằng thất trận, sau 2 tuần không tắm, được ngụp lặn trong cái vũng nước trong xanh ấy thì còn gì
hơn.
Một cậu lính đứng dưới dòng thác xối, bỗng hét toáng lên:
- Chúng mày ơi. Lại đây. Sướng lắm. Nước dội vào sướng lắm.
Trời đất. “Vật dư thừa”của nó như đầu con rắn hổ mang, bạnh cằm ra như chực
đớp mồi. 1,2,3... rồi tất cả trần như nhộng chen nhau đứng mặc cho thác xối, khua chân múa tay, miệng la hét như những thằng điên.
Bỗng cậu Khoa la lên :
- Thi ! Thi xem thằng nào lớn nhất thì ngày mai được miễn đi gùi đạn.
Cậu Mạnh đốp lại:
- Cậu ngu bỏ mẹ. Thằng vừa to vừa dài là thằng to khỏe để nó ở nhà thì phí
quá...
Sau một hồi tranh cãi, các “ thí sinh” đồng thời là “giám khảo” thống nhất lấy
2 giải: Đẹp nhất và nhỏ nhất.
|
Thác Mơ ngày ấy, bây giờ. |
Cuộc thi nào rồi cũng đến hồi kết, Mạnh là người đoạt giải hai kích thứớc khiêm
tốn nhất.
Trên đường về hậu cứ, mấy cậu cứ trầm trồ:
- Sướng thật. Nếu sau này sống trở về lấy vợ có được như thế không nhỉ ?
Trên thế gian này có cuộc thi nào như thế nữa không.
Nơi chúng tôi tắm năm xưa
nay đã thành khu du lịch sinh thái Thác Mơ. Cái tên mà lính chúng tôi đặt cho
dòng thác ấy vào đầu năm 1973 trở thành tên riêng một địa danh. Từ ngã ba La
Sơn theo đường 14 đi lên chưa đầy 40km.
Trong số những người “dự
cuộc thi” lần ấy, đến tháng 10 năm 1974, sau chiến dịch đánh chiếm dãy núi Mỏ
Tàu, chẳng mấy ai có cơ may về cưới vợ để so sánh cái gì sướng hơn. Cậu Mạnh vẫn
còn, năm 1982 phục viên về lấy vợ. Tuy số đo khiêm tốn, nhưng 6 năm vẫn cho ra
lò 4 nàng công chúa. Năm 2006 biết tin cậu ấy về chẳng có chế độ gì, mấy anh em
CCB trinh sát chúng tôi ra thăm xem có giúp gì được. Không bị thương nên không
thể làm chế độ thương binh. Khi Nhà nước có chủ trương làm chế độ chất độc màu
da cam cho những CCB tham chiến nằm trong vĩ tuyến 17. Được đồng đội đương chức
giúp nên cũng được hưởng chế độ chất độc da cam. Cậu ấy mừng lắm,và quy ra ngay
bằng thóc:
- Chúng mày cho tao tháng hai tạ lúa rồi còn gì. Cả nhà ăn không hết.
Cách đây vài năm Chủ tịch xã quê cậu nguyên là trò cũ của vợ chồng tôi mua
chiếc xe mới, mời thầy cô ra khao, tôi lại đến thăm Mạnh, lần này cậu ấy không
vui như trước :
- Hai đứa con tao có lẽ không lấy được chồng.
- Sao thế ?
- Cũng có vài nơi dạm hỏi, nhưng bị dèm pha bởi tao bị nhiễm chất độc da cam.
Tôi không biết nói gì, nhưng cũng lãnh phần trách nhiệm:
- Bọn mình giúp cậu, hóa ra lại hại con cậu rồi.
- Không! Chúng mày không có lỗi, lỗi là do tao, tao tham, cứ nghĩ 10 năm tham
gia quân đội, 3 năm ở chiến trường về chẳng có chế độ gì. Được hưởng thêm tháng
vài tạ lúa cũng bớt khó khăn. Vả lại cũng đỡ tủi than. Ai ngờ.
Nhưng rồi cậu ấy lại động viên tôi:
- Thôi ! Mày đừng buồn, tao đã có cách.
- Cách gì?
- Sắp tới cho cả 2 đứa vào Đắc Lắc cuốc cỏ cà phê làm thuê, rồi cũng như 2 con
chị chúng sẽ có chồng và ở luôn trong ấy, cho vợ vào nuôi cháu, tao ở nhà sống
chết với cái chế độ chất độc da cam này.
Nghe Mạnh nói thế, lòng tôi
lại càng buồn thêm. Không biết cậu ấy còn sống được bao lâu nữa, cùng sinh năm
1952 như tôi mà trông Mạnh như lão tám mươi, khi cười cả hai hàm răng hầu hết
đi trước tuổi, tiếng nói phều phào nhão choẹt, tóc lưa thưa lại bạc gần hết,
trông thật thảm hại.
Khoảnh khắc được tận hưởng cái cảm giác khác lạ ngây ngất lần đầu tiên trong
đời do dòng thác mang lại rồi cũng nhanh chóng qua đi. Ai nấy lại trở về với
công việc thực tại, người ở tuyến sau lại tiếp tục gùi lương tải đạn, mở đường.
Tuyến trước thì tập kết lương thực thuốc men.Trên chốt thì củng cố hầm hào công
sự. Ở hậu cứ thì tranh thủ đào huyệt dự phòng. Trước mắt là để làm hố cá nhân,
khi bị pháo kích thì nhảy xuống cho an toàn, sau nữa khi bạn chết đưa về có sẵn
chỗ mà chôn. Mặc dù đã chết nhưng cũng chẳng muốn để bạn nằm xa, chôn gần hầm
trú ẩn của mình vẫn ấm tình đồng đội, cảm thấy đỡ lạnh lưng hở sườn. Mặt khác
không may bị bom pháo đào lên còn biết mà lấp lại.
Trinh sát còn anh nào lại
tung ra nắm tình hình đối phương. Khi được giao nhiệm vụ đi nghiên cứu căn cứ
Nguyễn Trãi, anh Phượng ( Quảng Ninh ) nói ra tâm trạng của hầu hết chúng tôi:
- Sắp kí Hiệp định Pari còn đi nắm địch làm cái chó gì nữa ?
Đúng thế. Trong tâm trí chúng tôi chẳng ai nghĩ đến đánh nhau, chỉ thấp thỏm
chờ giây phút thiêng liêng ấy. Sự hồi hộp, căng thẳng còn hơn việc đứng ngồi
chờ tin vợ đẻ.
Rồi giây phút ấy cũng đến,21h ngày 27/ 1/1973 Hiệp định Pari đã được kí kết.
Hay tin cả lính ta và lính bên kia thi nhau nhả đạn, có điều nòng súng được
quay lên trời. Tiếng hò reo của lính chốt trên các đỉnh đồi nối dài vang vọng
vào núi rừng xanh thẳm, hòa cùng tiếng súng nổ ran như dân mình đốt pháo đón
giao thừa vậy. Thậm chí có cậu giữ B41 đứng lên nóc hầm hướng nòng lên trời mà bóp
cò, hết tầm đạn nổ chẳng khác gì pháo hoa. Chúng tôi ôm nhau cười to mà nước
mắt ai cũng trào ra. Lúc ấy mới kịp hỏi nhau:
- Ở ngoài Bắc anh ở tỉnh nào, huyện nào, xã nào. Bố mẹ còn khỏe không ? Có em
gái không ?
Tóm lại là chuyện chỉ xoay quanh việc được trở về đất Bắc. Anh Thái Đại đội phó
còn hỏi tôi :
- Mày về có cưới con H không?
Trời đất ! Lúc ấy vợ tôi vừa học xong kỳ 1 lớp 10/10.
Có anh còn phang cả khẩu AK vào gốc cây rồi tung lên trời:
- Cho mày về chầu diêm vương.
Trong đầu của những tâm hồn
trong sáng vô tư và hồn nhiên ấy, với tuổi đời còn rất trẻ chỉ nghĩ rằng: Chiến tranh
đã kết thúc.
Làm sao biết được việc ký hiệp
định Pari chỉ là một nước đi trong ván cờ đôi bên bất phân thắng bại. Họ đâu
thực tâm coi đó là khoảnh khắc lịch sử của cả một dân tộc.
Tính
mạng của những thanh niên vô tội ở cả hai phía lại sắp được ném vào cuộc chiến
tới còn tàn khốc gấp bội...
Dường như cấp trên đã dự đoán được
diễn biến tư tưởng của người lính, mà cũng chẳng riêng gì lính, nhiều cán bộ sỹ
quan cũng xà vào các nhóm đánh bài tiến lên và cũng chẳng thấy các trung đội tổ
chức cho anh em đào huyệt dự phòng như thời gian trước.
Cuộc họp Quân chính toàn Trung đoàn
được tổ chức. Chủ đề của đợt sinh hoạt chính trị này là: “Chống ảo tưởng hòa
bình, nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động lấn
chiếm của kẻ địch”
Tinh thần ấy được quán triệt tới từng chiến sỹ, những điểm chốt quan trọng cán
bộ chính trị ra tận nơi để phổ biến tinh thần ấy.
|
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên một số công việc chuẩn bị cho hòa hợp, hòa giải dân tộc vẫn được tiến
hành. Nhiệm vụ này chỉ triển khai đến cấp tiểu đoàn. Mỗi tiểu đoàn chọn ra
những người “nhìn được”. Tất cả những người chọn ra được cắt tóc cạo râu, được
phát thêm bộ quần áo Tô châu, đôi dép cao su mới. Trung đội này được cắm tổ
trinh sát do anh Thái là Đại đội phó làm tổ trưởng cùng tôi và Hiếu - Khoa lý
(nay là PGS-TS) có nhiệm vụ theo dõi mọi diễn biến đối phương, kể cả cách bố
trí trận địa của họ trên Động Giếng. Đại đội trưởng Tăng Văn Phả trực tiếp đóng
vai Trung đội trưởng và có nhiệm vụ liên hệ phối hợp với lực lưỡng VNCH làm một
căn nhà bằng cây lá rừng nằm bên dòng suối Nhật Lệ là ranh giới phân chia 2
chiến tuyến. Là nơi để gặp gỡ giao lưu và trao gửi cho nhau những yêu cầu mà
mỗi bên quan tâm. Công việc được lính của hai bên tham gia, nếu chỉ mặc quần
cộc áo lót thì chẳng khác chi anh em một nhà tập trung về giúp mẹ dựng căn nhà
tạm sau cơn lũ quét. Chẳng ai biết được đó là những người mấy ngày trước có mày
mà không có tao và cũng không ai biết được sau đó họ sẽ đối xử với nhau như thế
nào.
Để dựng được một căn nhà theo yêu cầu,
một mình lính ta làm có khi 4,5 ngày chưa xong, có lính bên kia tham gia công
việc tiến hành thật mau lẹ, bởi họ có đầy đủ công cụ. Chiếc cưa máy cầm tay mà
lần đầu tiên trong đời chúng tôi được nhìn thấy, chiếc thước dây cũng vậy, nó
chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay khi kéo ra dài 5m. Họ làm như xiếc trước mắt những
anh chàng “nhà quê ra tỉnh” như chúng tôi.
Lúc nghỉ giải lao mùi thuốc lá “ Quân tiếp vụ” thơm đến thèm chảy nước bọt, anh
nào cũng mong được họ mời và họ mời thật, tôi hút thuốc chưa nhiều, vừa nhấp môi
rít một hơi dài chưa kịp nhả khói đã thấy cây rừng nghiêng ngả khi tỉnh lại
thấy lính hai bên đang nhìn tôi cười nghiêng
ngả. Lần đầu tiên tôi làm xấu mặt lính “Việt cộng”, anh Phả định trả tôi về Trung
đoàn nhưng anh Thái nói: Không được. Nó
là liên lạc của tôi.
Lính ta đón nhận điếu thuốc từ tay những người lính bên kia với thái độ biết ơn,
còn Trung đội trưởng Phả giơ tay từ chối và lấy gói Điện biên bao bạc rút ra một điếu rồi từ tốn châm lửa hút. Lính bên kia thấy
thuốc lạ, có vài anh cũng xin được hút thử rồi đánh giá : Không đầu lọc. Thơm,
nhưng nhẹ quá !
Chỉ từ những điếu thuốc chia nhau mà khoảng cách địch ta giữa chúng tôi dần được
xóa nhòa. Dẫu sao thì cũng cùng một mẹ Việt Nam máu đỏ da vàng.
Ngày hôm sau những anh nào được cử đi làm, ai hút thuốc đều được phát một bao Điện
biên và được quán triệt không được hút thuốc của bên kia nữa.
Sau vài ngày biết được đơn vị đang đối diện với ta là lính trung đoàn 54, đơn
vị được truy tặng “Bắc đẩu bội tinh”,
giống như đơn vị Anh hùng của ta vậy. Một trung đoàn nổi tiếng là gan lì và khát máu
thế mà khi gần họ thấy anh nào cũng hiền khô như lính mình, thậm chí còn thơm
thảo nữa . Anh nào về thăm nhà lên cũng có quà biếu chúng tôi, khi vài cân nếp,
khi con vịt, có anh còn mua cả chục chiếc khăn voan, ví nháy nháy biếu tặng. Tất
nhiên những thứ ấy chẳng ai được phép dung bởi cấp trên cho đó là hàng “tâm lý
chiến” nên thu hồi lại. Chúng tôi chẳng có gì biếu họ chỉ nói suông rằng : Khi
nào 2 miền Nam Bắc thông thương mời các bạn ra thăm Hồ Gươm. Anh lính nào cũng
ngỡ như ngày mai ngày kia được ra thật.
Khoảng 3 tuần sau, khi anh Phả dẫn
ra nhà hòa hợp đã thấy viên sỹ quan chỉ huy bên kia ngồi chờ tự lúc nào, anh ấy
đi một mình, không ai tháp tùng, chắc muốn thổ lộ điều gì bí mật chăng !? Anh
ta đứng dậy miễn cưỡng bắt tay rồi với giọng buồn rầu:
- Tôi có một đề nghị không biết các ông có chấp nhận không ?
- Việc gì ông cứ nói – Anh Phả đáp lời .
- Cấp trên chúng tôi ra lệnh đánh chiếm điểm cao các ông đang chốt giữ. Tôi là
người chỉ huy không thể không chấp hành , nhưng nếu đánh thật thì đôi bên lại
gây chết chóc cho nhau, tôi đề nghị các ông cùng chúng tôi đánh trận giả.
Nói rồi viên sỹ quan vạch ra một kế hoạch thật tỉ mỉ. Cuối cùng anh ta đề nghị:
- Yêu cầu các ông phải sử dụng B40, B41 có như thế mới đánh lừa được cấp trên
chúng tôi.
Anh Phả hội ý nhanh với tổ trinh sát rồi thống nhất đồng ý. Trận đánh diễn ra
đúng như phương án của viên chỉ huy vạch ra. Sau trận đánh quân ta cười nói như
khi thu quân sau một buổi diễn tập hiệp đồng tác chiến.
Ngay ngày hôm sau toàn mặt trận nhận được tin: ”Quân lực VNCH đã ngang nhiên
phá vỡ hiệp định Pa ri”, Và, tinh thần “ đập tan mọi âm mưu và hành động lấn
chiếm của địch” đã biến thành hiện thực một cách nhanh chóng. Trung đội do Tăng
Văn Phả sắm vai được giải tán, anh Phả trở về với đúng cương vị của mình là Đại
đội trưởng đại đội chủ công có nhiệm vụ đánh tiêu diệt lực lượng đối phương
đóng trên Động Giếng, tổ trinh sát Trung đoàn tiếp tục làm nhiệm vụ. Phía bên
kia vẫn chẳng hay biết gì.
Khi đi nắm lại tình hình đối phương lần cuối, vào đến gần hàng rào nghe viên sỹ
quan chỉ huy nói với một người nào đó:
- Mấy thứ này mai mốt mang sang biếu mấy anh giải phóng.
Ba chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ rút lui.
Tôi đem chuyện này nói với anh Phả, anh ấy chạy lại nói nhỏ vào tai tôi:
- Nếu mày lộ ra chuyện này làm nản lòng lính tao, tao đánh không thắng sẽ báo
trung đoàn cho mày ra tòa án binh !
17h30 phút ngày hôm sau trận đánh diễn ra đúng kế hoạch và nhanh chóng giành
thắng lợi. Khi theo chân anh Thái lên thu bản đồ và tài liệu của đối phương,
đếm được 8 thi thể đã cháy đen, có người miệng há hốc đầy máu quyện lẫn thức ăn
chưa kịp nuốt. Đó là thời điểm lính bên kia đang ăn bữa cơm chiều. Hình ảnh đó
ám ảnh tôi suốt 43 năm qua. Chắc chắn trong số đó có người đã cười nghiêng ngả
khi thấy tôi say thuốc lá. Hỡi những người lính chiến tuyến bên kia ơi ! Tôi đã
không thể làm gì để báo tin cho các bạn, nếu cố tình báo cho các bạn thì tôi đã
bị xử tử ngay tại trận chứ không để đến ngày ra tòa án binh ! Dẫu sao các bạn
cũng được an ủi phần nào, ngày hôm sau trực thăng đã đưa các bạn về về đồng
bằng, chắc chắn bây giờ đã mồ yên mả đẹp tại nghĩa trang gia tộc, còn đồng đội
tôi biết mấy ngàn người trong những cánh rừngTây nam thành phố Huế xương vẫn
còn phơi.
Còn anh Phả, với nhiều chiến công đánh thắng giòn giã đã đưa anh có những bước
thăng tiến dài.
Thiếu tướng Tăng Văn Phả, do yêu cầu nhiệm vụ được chuyển ra ngoài làm Bí thư
kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Nam, nhậm chức chưa được bao lâu thì bị
bệnh hiểm nghèo và qua đời năm 2003 khi tuổi đời còn có thể cống hiến được
nhiều cho đất nước.
Đốt nén hương thơm xin cúi đầu vái lạy Anh !
Lính Trung đoàn tôi có nhiều kiểu chết, không riêng gì lính mà
cán bộ cũng chết nhiều, thậm chí Trung đoàn trưởng chết một cách tức tưởi như
trường hợp thiếu tá Khởi. Tốt nghiệp Học viện trung cao vào nhậm chức Trung
đoàn trưởng thay anh Trần Lưu Chử chưa được bao lâu, trên đường lên Quân khu dự
họp, vừa qua dốc H15 gặp bão bị cây rừng gãy đập vào đầu chết không kịp nói lời
trăng trối. Rồi Trung đoàn phó Đuổi đang ở hậu cứ bị bom Na pan thiêu cháy đen,
tiếp đến Chính trị viên Tiểu đoàn Bách bị pháo 175 hất tung lên trời, Trưởng Ban
tác chiến Tráng (Quảng trị) sau khi Huế đã giải phóng dẫn quân lên rừng thu dọn
chiến trường bị bị lũ cuốn trôi...
Còn đây là một trường hợp chết thật hi hữu. Ngày 15/3/1973, tổ
trinh sát do Phạm Minh Tâm(Cẩm xuyên) làm tổ trưởng cùng Trần Đình Thiết (Quảng
Bình), Nguyễn văn Hương (Hà tĩnh) và Lục Cá Dẫu (Quảng Ninh) có nhiệm vụ vượt
qua tuyến phòng thủ đối phương đánh quấy phá đồng bằng, thực hiên kế “Dương
đông kích Tây” tạo điều kiện cho chủ lực ta đánh chiếm căn cứ Nguyễn Trãi nằm
trên dãy Ba-Lô. Đội hình hành tiến do Lục Cá Dẫu đi đầu, khi cách đỉnh yên ngựa
ba bốn chục mét, nghe tiếng lính bên kia nói chuyện rì rầm, Dẫu ra hiệu cho
phía sau dừng lại rồi một mình bò lên nắm tình hình, chẳng may đụng vào một tổ
ong, rúc đầu vào bụi giang nằm im, mặc cho ong đốt, không một tiếng kêu la.
Không thấy Dẫu quay lại, Tâm cùng Hương bò lên quan sát, thấy Dẫu đang cắm đầu
vào bụi giang bất động, khẩu AK vẫn khoác chéo ngực, đàn ong bu bám đấy mình. Chờ
cho đàn ong về tổ, Hương bò lên lấy dây võng buộc vào cổ chân rồi cùng Tâm kéo
nhưng không thể được. Tâm quyết định để Dẫu nằm lại và tìm hướng khác thực thi
nhiệm vụ. Sau 2 ngày đánh hết cơ số đạn, trở lại nơi Dẫu hy sinh, anh vẫn nằm
đó với tư thế cũ, lại vẫn phương pháp cũ, bụi giang rung động, một tiếng nổ
phát ra từ nơi Dẫu nằm, tiếp theo là tiếng nổ của nhiều quả lựu đạn từ trên yên
ngựa ném xuống. Biết địch đã phát hiện và dùng xác Dẫu để tiêu diệt quân ta
.Biết không thể lấy Dẫu ra trong lúc này. Bốn ngày sau Trung đoàn tổ chức để
lấy thi thể anh, khi Hương bò lên quan sát, nơi anh nằm cây rừng đã cháy, xác
anh đã được lính bên kia chôn ngay dưới gốc cây găng, cách cây cổ thụ khoảng
mươi mét. Mọi người lặng lẽ ra về. Thời gian trôi đi, Miền Nam giải phóng, mỗi
người một nơi, ai cũng bộn bề với việc mưu sinh. Một mình Lục Cả Dẫu lặng yên
trên đỉnh đèo heo hút ấy đã hơn 40 năm ròng.
Gia đình Lục Cá Dẫu tìm đến trung tâm ngoại cảm này, nhà ngoại cảm nọ, mỗi
người nói một nẻo , chẳng biết tin ai. Cháu Lục Thanh Xuân tìm đến những người
cùng nhập ngũ với bác mình, được biết bác là chiến sỹ trinh sát trung đoàn 6,
thuộc mặt trận B4 Quân khu Trị Thiên Huế. Khi được biết Hội CCB Đại đội trinh sát
trung đoàn 6 tổ chức gặp mặt vào ngày 25/3/2012 tại TP Huế, Em trai Lục cá Dẫu
cùng cháu Lục Thanh Xuân vào để mong có thông tin. Thật may mắn Phạm Minh Tâm
có tham gia(lần họp mặt năm ấy tôi không thể đi được vì mẹ ốm nặng). Sau buổi
gặp mặt Tâm dẫn gia đình lên xã Dương Hòa chỉ tay về dãy núi Đá Đen bảo rằng :
Anh ấy đang nằm trên đó ! Công việc tìm kiếm Lục cá Dẫu được giao cho Tâm phụ
trách. Tâm về Hà tĩnh tìm Hương, rất không may khi về qua cầu Giằng – Hà tĩnh
Tâm bị tai nạn giao thông, chiếc xe máy bị chiếc xe công-tơ-nơ đè nát , Tâm
nhảy ra, đầu va vào thành cầu, chấn thương sọ são bất tỉnh, công việc tìm kiếm
tưởng như đi vào bế tắc. Rất may là Tâm được người đi đường đưa về viên đa khoa
tỉnh NA nơi vợ Tâm là BS ở đó nên được điều trị kịp thời, 2 tháng sau dần bình
phục. Ra viện Tâm điện cho tôi bảo rằng: Mày xuống đây cùng tao xác định lại
nơi Dẫu HS, tao nhớ lại rồi, hình như nó chết ở Ba Lô chứ không phải ở Đá
Đen.Không trách được Phạm minh Tâm ,bởi anh ấy nguyên là trung đội trưởng bộ
binh, mới được điều lên bổ sung cho đại đội trinh sát. Thời gian Dẫu hy sinh,
tổ của tôi đang nằm trong căn hầm bí mật tại chân cao điểm 201 để nắm địch trên
căn cứ Nguyễn Trãi.
|
Vùng núi yên ngựa, Xã Xuân Lộc, Huyện Nam Đông ngày nay. |
Sau hơn một năm thu thập thông tin, Hương lại được mời ra. Mở tấm bản đồ tác
chiến những năm ấy tôi còn cất giấu được để xác định tọa độ. Ba người thống
nhất chấm vào một điểm trên yên ngựa thứ tư của dãy Ba Lô, đồng thời báo cho
gia đình Dẫu chọn ngày lên đường tìm kiếm. Tâm không thể đi được, tôi được giao
nhiệm vụ trưởng đoàn. 200 bức thư ngỏ khi qua cầu Hiền Lương được trải dọc QL1
với hy vọng những người lính bên kia từng tham gia chôn cất Dẫu còn sống nhặt
được để họ cung cấp thêm thông tin. Sau khi làm việc với UBND xã Xuân lộc, yêu
cầu cho một người dẫn đường đồng thời là người làm chứng cho việc tìm kiếm,cất
bốc. Anh Chiến Xã Đội phó được cử đi cùng. Tôi quay sang :
- Chú dẫn bác vào Bãi gạo, từ Bãi gạo là có thể nhìn thấy dãy núi Ba Lô, nơi Dẫu
hy sinh
Đúng như dự đoán, vào đến Bãi gạo, dãy Ba Lô hiện ra trước mặt. Trải tấm bản
đồ, lấy la bàn xác định phương hướng, đường kẻ từ điểm đen trên bàn đồ trùng
với Yên ngựa thứ 4 của dẫy núi, trên đó vẫn còn cây cổ thụ năm nào như chiếc ô
khổng lồ, tôi chỉ tay quả quyết:
- Đi lên cây độc mộc kia.
Đường chim bay khoảng 1km nhưng phải đi hơn 2 giờ mới tới nơi. Khuôn mặt Hương
như trẻ lại, cậu ấy hào hứng:
- Đúng 100% rồi. Cây găng vẫn còn đó.
Lòng tôi rạo rực! Không ngờ trí nhớ của mình lại tốt đến thế.
Làm xong các thủ tục tâm linh, hình như chỉ đợi có thế, bất chấp
gai góc cháu gái Lục Thị Liên (Cháu gọi Lục Cá Dẫu bằng bác ruột) kéo tôi cùng
lao đến dưới gốc cây găng, mọi người cùng chạy theo, tới nơi một tổ ong bị đánh
động bay lên, tôi chợt nghĩ: Có lẽ đàn ong năm xưa ân hận với việc đã làm nên
lại tụ về bảo vệ nơi Anh yên nghỉ.
Lục Gia Bình em trai Lục cá Dẫu là người dân tộc Sán dìu quen với việc xử lý
ong rừng, cậu ta vơ vội nắm lá khô đốt lên xua đuổi đàn ông, tuy vậy mỗi người
cũng bị dăm ba nốt ong đốt, riêng tôi bị 2 nốt vào đầu khi về tới Huế phải uống
thuốc giảm đau.
Công việc cất bốc được tiến hành nhanh chóng dưới sự chứng kiến của Xã đội phó
đi cùng cùng mười người than trong gia đình mừng rỡ nhảy múa như lễ hội, chẳng
ai rơi một giọt nước mắt nào, niềm vui ngập tràn trên gương mặt họ.
Bốn giờ chiều ra đến cửa rừng bỗng mây đen kéo đến vần vũ, lác đác vài giọt mưa
bay. Mọi người không tin vào mắt mình: Một cây cầu vồng gác chân lên 2 ngọn
núi. Vẫn biết đó là sự hòa quyện của thiên nhiên nhưng tôi có cảm giác như đó
là máu của lính chiến hai bên như hòa cùng với màu của đất, của cây cỏ, màu của
khói lửa đạn bom rồi nối vào nhau như hai bờ chiến tuyến.
Mọi thủ tục pháp lý được Chính quyền địa phương và phòng LĐTB - XH huyện giải
quyết nhanh gọn trong ngày hôm sau. Đêm hôm đó chúng tôi cùng nghỉ lại nhà nghỉ
Bến Ngự, tôi và Lục Gia Bình nằm 2 giường, khoảng giữa đặt hài cốt Lục Cá Dẫu,
tôi không ngủ được và ngồi viết bài viếng anh:
KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN LIỆT SĨ LỤC CÁ DẪU
Hơn bốn chục năm trời ai tỏ
Đêm đêm nằm nghe gió ngàn reo
Một mình anh đơn chiếc đỉnh đèo
Chiều lại chiều trăng treo tròn khuyết
Đồng đội xưa nào ai có biết
Bốn mươi năm đói rét chờ mong
Tiếng gió ngàn cứ ngỡ tiếng ong
Thân đau buốt cắn răng anh chịu
***
Nào biết được rằng sau cuộc chiến
Bao năm trời biền biệt xa nhau
Lại gặp nhau giữa chốn rừng sâu
Lại ôm nhau trong tình đồng đội
Gặp các em mừng mừng tủi tủi
Cùng cháu trai cháu gái vui đùa
Niềm sướng vui ập đến không ngờ
Chuyện thật mà cứ ngỡ như mơ
Bao kỷ vật năm xưa còn đó
Máu thịt anh hóa thành cây cỏ
Đất Xuân lộc cờ đỏ , lộc xanh
Nơi anh nằm rừng vẫn nguyên sinh
Tỏa bóng che anh cây cổ thụ
Trông xa chừng đất trời làm dấu
Cho anh em đồng đội đón về
Tạm biệt Xuân Lộc một chiều hè
Anh kéo mây làm mảnh ô che
Cứ ngỡ anh còn trên trần thế
Cùng lên rừng xuống bể năm nào
Thay nhau đài quan sát Chúc Mao
Dãy Răng Cưa năm nào ta vượt
Những đồi Nghệ, núi Bông , Hòn vượn
Đèo Hải Vân in bước chân ta
Lên Tà Lương , A - lưới không xa
Dịp này về ghé qua Bến Ngự
Anh bảo em : Thằng hay nói chữ ,
Tao thích nghe Ví dặm quê mày
Tuy mộc mạc nghe mãi thấy hay
Tao yêu mày sống ngay, nói thẳng
Tao hẹn mày mai ngày chiến thắng
Đón mày về đất Quảng ninh tao
Đãi món ăn dân tộc Sán Dìu
Mày sẽ hết chê tao “dân tộc”
Than ôi !
Giờ nghi lại lòng đau như cắt
Cả đàn ong vây chặt thân anh
Anh cắn răng chịu đựng nằm im
Cho lành lặn trái tim đồng đội
Ngày chiến thắng cháy lòng mong mỏi
không còn anh đi giữa rừng cờ
Anh ngủ say đến tận bây giờ
Bỗng thức dậy đứng chờ đỉnh núi
Bóng hình anh xa trông vời vợi
Cho người đời vươn tới thanh cao
Gương hy sinh còn đó năm nào
Anh mãi mãi đi vào bất tử
***
Tiễn anh về quê hương xứ sở
Viết mấy lời bày tỏ tâm can
Thay chân đưa tiễn dặm đường
Về quê yên nghỉ tình thương ngập tràn
Về nơi có xóm có làng
Có đàn cháu nhỏ dâng ngàn nén hương
Ai còn nằm lại chiến trường
Xin anh chỉ lối đưa đường về theo
Ngày mai em lại vượt đèo
Anh về em vẫn dõi theo dặm trường
Thương anh biết mấy là thương
Tiễn anh xin đốt nén hương lòng thành
Anh về quê mẹ Quảng ninh
Chúc anh yên nghỉ an lành ngàn thu
Đừng ai gieo rắc hận thù
Để anh nghe trọn lời ru Mẹ hiền./.
Tại lễ truy điệu do hôi CCB Thành phố Huế tổ chức tại Đài liệt sỹ Trung đoàn,
hài cốt Anh được chuyển sang chiếc tiểu sành do CCB Thành phố tặng . Cuối buổi
lễ tôi đọc bài văn tế tiễn đưa Anh trong niềm xúc động của đông đảo nhân dân và
đồng đội có mặt . Được các cháu ghi âm, ghi hình và làm bài mở đầu cho buổi lễ
tại quê nhà được tổ chức sau đó 6 ngày, ngày 12/6/2013
Rất tiếc tôi và Hương không
thể theo xe về Quảng ninh như nguyện vọng của anh ấy, bởi ngày hôm sau lại dẫn
gia đình Liệt sĩ Diệp Minh Sắm, quê Quảng ninh lên cao điểm 185, gần đường 12
tìm mộ anh ấy. Mộ do chính Hương chôn cất nhưng khi tìm đến thì máy ủi đã san
xuống vực sâu làm đường cho xe cẩu vào khai thác gỗ, gia đình đành lấy nắm đất
về xây lăng mộ.
Trước lúc viết chuyện này
tôi đã xin ý kiến gia đình Lục Cá Dẫu, cháu Lục Thanh Xuân bảo rằng;
- Tùy bác thôi. Bây giờ bác của cháu đã mồ yên tại nghĩa trang Liệt sĩ huyện
nhà, gia đình cháu chẳng có đòi hỏi gì hơn.
Tôi và Lục Cá Dẫu cùng sống
và chiến đấu bên nhau 8 tháng 28 ngày. Cảm phục trước hành động cao đẹp của anh
nên không thể không viết. Không làm được điều này tôi như có lỗi với người đã
khuất và xin kính tặng câu chuyện này cho nhân dân xã Tiên lãng, Huyện Tiên Yên,
tỉnh Quảng Ninh nơi đã sinh ra một con người như thế. Một người xứng đáng được
tuyên dương Anh hung LLVTND. Nếu lúc đó Anh ấy la lên vùng chạy thì cả bốn chúng
tôi sẽ không thoát khỏi tầm hỏa lực của đối phương từ hai sườn đồi bắn xuống và
lựu đạn của tổ đón lõng từ yên ngựa và Tâm cũng không thể thực hiện được nhiệm
vụ cấp trên giao.
Khi tôi bày tỏ nguyện vọng này với vài Sỹ quan cao cấp trưởng thành từ Trung
đoàn, có người nói: “Đó là một kiểu chết như bao cái chết khác, hơn nữa bây giờ
bọn mình đã về hưu cả rồi, có làm đề nghị cũng chẳng ai xét cho đâu”. Có thể họ
nói rất thật lòng.
Người ít quan tâm đến
chính trị cũng hiểu được rằng: Các bên tham gia ký hiệp định 4 bên tại Paris gồm: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng
lâm thời CHMNVN, Mỹ và Chính phủ Việt Nam cộng hòa (thực ra là một trong hai). Bà Nguyễn Thị Bình với cương vị trưởng đoàn và đoàn Chính phủ Cách mạng
lâm thời là sự quảng bá để thu hút dư luận thế giới. Đó là một “bài” chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi.
Mỗi bên tham gia ký kết đều mang động cơ riêng,
xem ra Mỹ là nước thực hiện nghiêm túc hơn cả. Đúng 2 tháng sau, theo Hiệp định đã ký, những người
lính Mỹ cuối cùng đã rút khỏi Miền Nam. Những người Việt Nam phát động
chiến tranh ở cả 2 phía chỉ chờ có thế. Hiệp định nhanh chóng bị phá bỏ, những
người lính vô tội ở hai chiến tuyến lại tiếp tục đổ máu và ngã xuống trên chính mảnh
đất Việt Nam mình.
Sau khi tiêu diệt xong lực lượng đối phương trên
Động Giếng, khi rút quân về qua căn nhà “hòa hợp”, đại đội trưởng Phả gọi xạ thủ
B.40 lại ghé vào tai:
- Không cần nó nữa !
- Ùng ! oàng !
Hai tiếng nổ xé tai, căn nhà bốc cháy, chẳng
khác gì căn nhà một nông dân nghèo bị pháo kích, một cảnh tượng như trong phim hành
động Mỹ.
Phát súng B.40 như một điềm gở báo hiệu những
ngày tàn khốc lại tiếp diễn.
Sau khi Mỹ rút quân Tổng thống Thiệu như muốn chứng
tỏ sức mạnh quân sự của mình, cho pháo binh và máy bay ném bom xuống hầu hết
các điểm quân ta chốt giữ. Không ngày nào ngớt tiếng bom đạn.
Không chịu được áp lực đạn bom, Trung đoàn 6 lại
phải rút vào sâu trong rừng. Vùng trung du, đồng bằng và thành phố Huế lại thuộc
quyền kiểm soát của chính phủ VNCH. Trung đoàn không hề giành được một tấc đất
đồng bằng, không hề quản lý được người dân nào. Tất nhiên cấp trên của ta không
chịu chấp nhận điều đó. Giao tranh lại tiếp diễn.
Thời gian này Trung đoàn trưởng Khởi bị cây rừng
đổ đập vào đầu và chết trên dốc H.15.
Trung đoàn phó Trương Đình Thanh - Quyền trung đoàn trưởng khi vừa 29 tuổi. Đại
đội phó Thái được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng trinh sát thay anh Lê ra Bắc đi học.
Căn cứ Nguyễn Trãi của đối phương nằm trên dãy núi Ba lô, lực lượng chủ yếu đóng trên cao điểm
201. Là một cứ điểm tương đối kiên cố nên không thể ngày một ngày hai ta nắm được
một cách chính xác tình hình. Anh Thái quyết định cho đào hầm bí mật nằm ngay
dưới chân cao điểm ấy để tránh đi về nhiều lần dễ gặp phục kích. Hàng ngày nhìn
xuống hai bờ khe, măng mọc tua tủa mà không dám hái ăn, cả tháng trời chỉ nhai
gạo sấy, lương khô, thèm rau xanh đến cháy ruột. Phát hiện vài khóm cây Lạc tiên mọc trên bãi cháy cách hầm
khoảng 50m tôi mặc chiếc quần cộc, lấy đất bùn thoa lên khắp người rồi cẩn thận bò ra mang về được một nắm
rau xanh, vừa nhóm lửa nấu canh, anh Nông Văn Phượng(Quảng ninh) vội dập
ngay lửa và quát:
- Sinh viên chi mà ngu rứa. Củi giang đun ngửa, vợ chửa Đ. nghiêng.
Mày làm thế khói bay lên trên kia chúng nhìn thấy rồi ăn M.79 cả lũ.
Anh Thái nhìn tôi thương hại:
- Đừng chửi nó mà tội, tao đây 26 tuổi mà chưa
biết cái đó dọc ngang là gì, nó mới 21 biết chi mà nghiêng với ngửa. Hơn nữa nó
là người Kinh đâu phải như mày người dân tộc có củi giang mà đun nấu.
Anh Phượng như hiểu ra rồi làm mẫu cho tôi xem,
quả thật không có tý khói nào bay lên. Gô canh cũng được đun sôi, chỉ nắm rau
không có nước để rửa, mà ai cũng như được uống nhân sâm. Còn lại một ít, anh
Thái giật lại : “Ưu
tiên cho thằng đi hái” .
rồi anh cho thêm tôi một đặc ân:
- Tối nay mày không phải đi nắm địch.
Sau 2 tháng trời vất vả nắm
địch. Trận đánh cao điểm 201 cũng được tiến hành, khi dẫn quân lên không thấy Đại
đội trưởng mà chỉ có Đại đội phó Hùng chỉ huy, sau này mới biết bộ phận nuôi
quân nấu cơm khê, sợ gặp điềm gở nên đại đội trưởng Tịu cáo ốm cử Hùng đi thay,
biết được bụng dạ thủ trưởng mình nên Cậu Ý (khoa văn) là liên lạc đại đội cũng
tìm lý do ở lại cùng Thủ trưởng. Trận ấy gặp điềm gở thật, 3 xạ thủ B.40 bắn 18
quả đạn chỉ 2 quả nổ, xạ thủ RPD bị rối băng đạn, hỏa lực ta đấm lưng bộ binh,
cuối cùng phải dùng thê đội 2 mới đánh chiếm được. Khi lên tới nơi, bên kia đã
bỏ chạy, chỉ còn lại 3 xác chết và 2 người bị thương. Đang trong cơn giận giữ
vì đồng đội chết nhiều, lính ta hai người một, một người cầm chân, một người cầm
tay, 2 người lính bên kia bị thương được hất tung xuống sườn phía đông cao điểm.
Bỗng một người lính bộ binh la lên :
- Chúng mày ơi. lại đây mà xem.
Một cô gái lõa thể, viên đạn xuyên từ phía sau
xé nát một bên ngực. Một xạ thủ cối 60 ly lật xác cô ta rồi lắp đặt khẩu cối
lên bụng, anh Thái quát:
- Cậu làm trò gì thế !
Cậu ta cười nhăn nhở :
- Không có cái đế nào êm hơn đế ấy đâu thủ trưởng
ơi !
Nói thế nhưng 2 xạ thủ cối 60 cũng thu súng và
rút lui, trước lúc đi còn ném lại cái nhìn bặm trợn:
- Đạo đức thế thì ở lại mà chôn cô ta.
Chiến tranh tàn khốc đã biến những người lính hiền
lành nhiều khi trở thành ác thú.
Tổ trinh sát cùng mấy anh lính bộ binh kéo xác
cô ta cùng 2 tử sỹ xuống giao thông hào, đào đất hai bên lấp vội. Đại đội phó
Hùng giục mấy người đang ngồi bên kho hầm quân nhu mở những hộp dò Ba-Lát thi nhau ăn rồi nhanh chóng rút quân.
Một cậu lính nói đùa :
- Có chết thì cũng được chết no thủ trưởng ơi !
Lại đây cùng bọn em làm mấy hộp cho đỡ đói.
Năm 2013 khi đi tìm hài cốt liệt sỹ Lục Cá Dẫu,
tôi nhờ chú Chiến Xã Đội phó dẫn lên đỉnh 201 xem có gì đổi khác, chú ấy bảo:
- Trên ấy đã được tu sửa lại thành trận địa diễn
tập phòng thủ, các liệt sỹ trên ấy đã được qui tập về nghĩa trang của xã.
Vậy là cô gái kia đã được an ủi phần nào, dẫu
sao cô cũng như các đồng đội của tôi, năm hai lần chia nhau hương khói vào ngày
27/7 và ngày thành lập quân đội .
Bất giác tôi nhớ đến chuyện
bên nước Tàu hơn 2700 năm trước: Năm 685 trước công nguyên khi Quản Trọng phò
tá Tề Hoàn Công thu phục thành công các nước chư hầu, ông đã cho mở 7 nhà thổ
trên cả nước phục vụ nhu cầu tình dục cho binh sỹ, một nhu cầu đời thường của
con người, vừa giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn nô lệ nữ, vừa yên
lính, vừa an dân.
Nếu bên kia thắng cuộc chắc nơi đây dưới chân cao điểm 201 này sẽ là
bãi đậu xe rộng lớn, nhà hàng khách sạn mọc lên, người như trẩy hội, một con đường
nhựa uốn lượn dẫn du khách lên đỉnh cao này chiêm bái bức tượng một cô gái lõa
thể với cặp bồng đào căng mọng, để tưởng nhớ một người con gái đã bất chấp bom
đạn ra tận chiến hào phục vụ đời sống tinh thần binh sỹ.
Nơi đây lại trở thành điểm
du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế, hàng năm đóng vào ngân sách một khoản tiền
không nhỏ.
Sau vài lần dẫn Trung đoàn trưởng đi thị sát
căn cứ NguyễnTrãi, ông ấy ghé tai : “Sau trận này cậu lên ở với mình”
Cứ ngỡ ông ấy nói đùa , thế mà thật. Tháng 7/1973 tôi có quyết định điều về làm
công vụ cho Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh. Công vụ - Một công việc tổng hợp,
vừa là kẻ đầy tớ lo giặt giũ, cơm nước cho ông ấy hàng ngày, vừa như một tay
truyền đạt mệnh lệnh của ông tới các trưởng
ban phòng. Mỗi khi ông ấy đi công tác thì nhanh chóng khoác khẩu tiểu liên P-63
đi trước 5-7 mét để nếu gặp phục kích ông ấy còn có cơ may chạy thoát, nếu gặp
mìn thì một mình tôi lãnh trọn. Ngoài ra với khả năng thiện xạ của mình ông còn
giao cho tôi khẩu Tô-zet 8 để săn bắn chim, sóc, gà rừng, cải thiện bữa ăn. Thậm
chí có nhiều bản báo cáo của trợ lý các ban, ông không ưng ý là nhờ tôi chắp
bút lại. Tôi rất được việc cho ông.
Từ ngày lên sống với ông,
tôi có nhãn quan toàn diện hơn các hướng tác chiến của trung đoàn, bởi thường
xuyên nghe lỏm được các cuộc giao ban, nghe lỏm được các bức mật điện do Trưởng
ban cơ yếu đọc cho ông nghe. Khi ông chính thức yêu chị Thu Sen tôi trở thành
“cố vấn tình yêu” cho ông ấy và là người đưa và nhận thư cho 2 người, mãi tận
sau này muốn giới thiệu tôi với ai chị ấy lại nhắc: Đây là “con chim xanh” của
vợ chồng tui.
Khi đang lưỡng lự có nên viết lại chuyện này hay không, một số CCB của Trung
đoàn động viên : Cậu cứ viết , đó là một hình ảnh rất sống động nói lên sự khó khăn
thiếu thốn của Trung đoàn, chẳng ai có lỗi trong việc ấy cả.
Trung đoàn được thông báo là
mấy ngày đón danh hiệu Đơn vị Anh hùng
LLVTND sẽ có đoàn văn công quân khu xuống biểu diễn chào mừng, gọi là đoàn chứ
thực ra tính cả người phục vụ cũng chưa nổi chục người, nổi bật nhất vẫn là 3
cô ca sỹ: Thu Sen, Thu Lượng, Thu Hiền. Ba người không biết đã làm điên đảo bao
chàng lính chiến mà ở chiến trường Trị Thiên ai cũng thuộc câu đồng dao:
“Thu Sen- Thu Lượng- Thu Hiền
Cả ba Thu ấy làm phiền quân
khu.”
Nổi tiếng hơn cả vẫn là chị Thu
Sen, chị ấy đẹp không chỉ ở nhan sắc, không chỉ ở mái tóc dài mượt mà như dòng
A-sáp, mà còn đẹp trong lời ăn giọng nói, đẹp trong cách ứng xử hàng ngày. Đây
là cơ hội để Trung đoàn trưởng thể hiện mình trước người con gái mà bấy lâu nay
ông hằng ngưỡng mộ. Cái khó là lấy gì để chiêu đãi đoàn đây? Thịt hộp, rau rừng
ở quân khu không thiếu. Ông nhớ ngay đến Hồ Lầm. Phải chiêu đãi đoàn bằng những
món thịt thú rừng. Thịt thú rừng quân khu ít khi có. Hồ Lầm người dân tộc Tà Ôi
là thợ săn thiện xạ, được biên chế về trạm xá, chuyên lo thực phẩm tươi sống
cho thương bệnh binh. Trưởng phòng hậu cần gọi Hồ Lầm lên giao nhiệm vụ là phải
săn cho được vài con lợn rừng hoặc con nai, cả 4 ngày Hồ Lầm đi săn là 4 ngày
anh ấy ra một góc rừng mắc võng nằm ngủ. anh chia sẻ :
- Con thú rừng là của Giàng, Giàng bảo
ta đi thì mới bắt về được, còn thằng cán bộ bảo ta đi thì Giàng không cho bắt
được đâu.
Đoàn văn công sắp đến mà heo rừng , nai
rừng vẫn còn ở trong rừng. Trung đoàn trưởng lại giao cho tôi về đại đội trinh
sát cùng Nông Văn Vàng vào rừng may ra săn được con gì đó , Nông Văn Vàng là
người dân tộc Tày quê Tuyên Quang cũng là một tay thiện xạ, hồi còn ở Đại đội
trinh sát tôi thường được anh ấy cho đi theo nên cũng biết được một số chiêu
săn bắn thú rừng.
Một ngày chui rúc chỉ bắn được chú khỉ bị
thương, nó rơi xuống đất rồi bỏ chạy, 2 anh em đuổi theo nhảy qua tảng đá đầy rêu ngã mặt đập vào đá,
chiếc răng cửa bị mẻ một mẩu bằng hạt gạo, mồm toe toét máu, tôi kêu lên:
- Răng thế này về người yêu chê mất anh
Vàng ơi.
Anh ấy quát:
- Có còn sống trở về hay không mà lo xa,
nhanh lên đây giúp tao đuổi bắt nó.
Cuối cùng chúng tôi cũng tóm được con khỉ nó nặng chỉ
độ dăm cân. Báo cáo kết quả với anh Thanh, anh ấy quắc mắt:
- Loại ấy mang về nấu lên sặc mùi tanh cho
họ nôn hả mày ?
Con khỉ được để lại cho mấy anh em đại đội trinh sát nấu cháo. Cháo chín vớt ra đặt lên
lá chối rừng chẳng khác gì đứa trẻ sơ sinh. Anh Thái C trưởng vặn lấy cái đầu cắn
từng bộ phận, khi còn trơ ra chiếc sọ và hai hàm rang trắng phếu, anh ấy giơ lên
:
- Đứa nào ăn óc tao cho.
Chẳng ai dám nhìn, anh ấy đập
vào gốc cây bẻ ra làm đôi húp chùn chụt. Nhìn anh ấy ăn nỗi kinh sợ không ngăn
được cơn đói cồn cào, chẳng mấy chốc chú khỉ chỉ còn lại một ít xương. Cậu Mạnh
(y tá) nhặt toàn bộ số xương và vét ít cháo còn lại bỏ vào Gô rồi hỏi mọi người:
- Có ai ăn nữa không ?
Chẳng nói chẳng giằng, cậu ta đưa chiếc Gô ra
phía sau, một tiếng “sấm Nam vang” phát ra rõ to rồi cậu ta đậy nắp lại và treo chiếc
Gô lên cành cây:
- Không ai ăn nữa thì để đó ngày mai
tao ăn.
Sáng hôm sau thấy cậu ấy ngồi ăn ngon lành.
Tôi ở lại Đại đội trinh sát thêm một ngày để cùng anh Vàng vào rừng may ra kiếm
được con gì nhưng cuối cùng vẫn về tay không. Về nhà thấy cậu Khu là công vụ cho Trung
đoàn phó Đuổi đang giã lương khô:
- Để làm gì vậy mày ?
- Chẳng có gì chiêu đãi mấy anh chị văn
công nên đành nấu chè lương khô.
Vừa từ hội trường tiếp thuốc
nước mời khách vừa nhắc nhở cậu Khu trông nồi cháo kẻo bị khê. Cậu ấy lấy đũa
đánh và thấy tay nằng nặng, vật gì như chiếc khăn. Thôi chết. Ba chiếc “phụ
tùng” của 3 chị văn công hong trên giàn củi trên bếp chỉ còn hai. Làm thế nào bây
giờ? Đổ đi ư? Lấy đâu ra lương khô và đường ép để nấu nồi khác. Tôi quyết định
giữ bí mật rồi “ dũng cảm” mang ra khe giặt lại rồi phơi lên như cũ.
Sau một
đêm biểu diễn mệt nhoài, được bồi dưỡng bát cháo chè khác lạ này cũng có thể
coi như một món “đặc sản”. Mọi người xì xụp ngon lành. Tôi chạy đi chạy lại
chưa kịp bưng bát thì cậu Khu chạy vội ra đầu hè nôn như thể ngộ độc thức ăn. Bầu
không khí có vẻ như lắng xuống, tôi chạy vào trấn an mọi người:
- Lúc chiều nó ăn nhiều nấm, có lẽ cậu
ấy ăn phải nấm độc.
Anh Tuyến trưởng ban bảo vệ chạy ra chỗ
cậu Khu vừa nôn rồi kín đáo gọi tôi ra góc rừng:
- Mày khai thật đi. Thằng Khu nôn ra
làm gì có nấm trong đó, toàn chè lương khô. Nếu mày có hành động gì không qua nổi
mắt tao đâu. Tụi sinh viên chúng mày còn dám chạy sang bên kia đầu hàng địch
thì không có gì mà chúng mày không làm. Đã đến nước này thì không thể giấu được nữa tôi đành khai ra sự thật:
- Nếu anh nghi ngờ tôi bỏ thuốc độc để hại mọi
người thì bát của tôi còn trong ấy, tôi vào ăn cho anh xem.
Như một diễn viên chuyên nghiệp tôi vào
hội trường tươi cười chào hỏi mọi người và bưng bát cháo ăn như thể chưa khi
nào được ăn, cố nuốt cho trôi nhanh xuống dạ dày để nhỡ có buồn nôn cũng không
thể nôn ra được. Ăn xong mấy chị văn công đề nghị:
- Nghe nói công vụ của Trung đoàn trưởng
hát ví dăm hay lắm, hãy hát cho mọi người nghe đi.
Tôi chẳng ngại “múa rìu qua mắt thợ”, mượn
cây Ghita và bập bùng hát điệu ví quen thuộc:
“ Đèn có khêu mới rạng…”
Hát chưa xong mọi người đã lăn ra mà cười. Mấy chị còn khen : “Trung đoàn trưởng
khéo chọn công vụ thật”.
Chẳng còn ai nhớ đến chuyện cậu Khu vừa nôn lúc nãy.
Thú thực ngày ấy cả hai thằng chúng tôi đều chưa có vợ nên cứ nghĩ “những thứ ấy”
của chị em bẩn thỉu lắm. Nào ngờ khi lấy vợ rồi mới biết được “những thứ ấy”
cũng như các loại trang phục khác, cũng như chiếc mũ Bê-rê, mũ phớt đội đầu. Thời
nay thiếu nữ tuổi như mấy cô văn công thời ấy ”những thứ ấy” cũng lắm kiểu lắm
mốt, mua về mặc vào còn đứng trước gương ngó trước ngắm sau, thậm chí có cô còn
bắt chồng cho vài lời nhận xét. Còn thời ấy thứ các cô ấy mặc cũng chẳng khác
gì thứ phát cho nam giới chúng tôi. Mỗi người 2 chiêc, chiếc mặc chiếc nghỉ. Không
may lội khe suối bị ướt không tranh thủ hong khô ngày mai lấy gì mà thay.
Từ đó giai thoại “Chè
Thu Sen” không có người lính nào ở Quân khu Trị Thiên mà không biết. Có thể
chuyện được lộ ra từ anh Tuyến Trưởng ban bảo vệ Trung đoàn .?!
|
Thiếu tướng Trương Đình Thanh - Tư lênh QK4
Nguyên Trung đoàn trưởng E6 |
Nhưng cũng thật thú vị, nhờ có cuộc giao lưu của đoàn văn công lần ấy mà tình
yêu giữa Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh và cô văn công Thu Sen nhanh chóng
đơm hoa kết trái. Một năm sau vào ngày 18/10/1974 đám cưới của hai người được tổ
chức tại hội trường Quân khu. Sau ngày giải phóng TP Huế 4 tháng, ngày 25/7/1975
đứa con trai đầu lòng của họ chào đời.
Nhiều người bảo: Đằng sau Trung tướng tư lệnh QK4 Trương Đình Thanh là bóng
hình chị Thu Sen.
Là người đã cùng anh ấy vào sinh ra tử, tôi hiểu anh hơn ai hết. Trong chiến đấu
gan dạ đến lì lợm, ngoài đời là người hiền lành đức độ và chân thành, chân
thành đến mức mà anh chủ động nhận tôi làm em kết nghĩa. Những ngày nghỉ anh vẫn
thường xuyên đến nhà tôi để được tận hưởng bữa cơm gia đình. Có lần không biết
đùa hay thật, anh ấy bảo: Mày vội vàng chuyển ngành, nếu ở lại quân đội bây giờ
cái ghế Tham mưu trưởng Quân khu còn ai chen vào được.
Rất may là tôi không ở lại để ngồi vào ghế ấy, bởi ngày 16 tháng chạp, năm Giáp
Thân (2004) anh đã cùng Thiếu tướng - Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng QK4 và
14 người khác đã tử nạn khi chiếc máy bay trực thăng bốc cháy trên đảo Hòn Mê.
Cả 16 người phải xác định AND mới tìm ra danh tính.
Năm ấy anh vừa tròn 60 tuổi. Sắp kỷ niệm năm thứ 12 ngày anh vĩnh viễn ra đi. Nếu
không vào được tôi sẽ xin được phép nhờ chị Sen thắp lên mộ anh một nén hương
thơm tưởng nhớ một con người tôi luôn kính trọng.
Khoảng từ nửa cuối năm 1973, chiến
sự trên mặt trận do Trung đoàn đảm nhiệm có phần lắng dịu. Công việc chủ yếu là
tiếp tục mở đường 73 nối đường HCM đoạn từ A- lưới đi Nam Đông - Khe tre, chuẩn
bị cho đại quân đánh xuống đồng bằng trong những năm sắp tới. Một công việc
không kém phần quan trọng là chuẩn bị đón danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVTND. Để nhận được 2 chữ ANH HÙNG, trong suốt
10 năm chiến đấu, 12.700 cán bộ chiến sỹ của trung đoàn đã tử trận (mười hai
ngàn bảy trăm). Nếu tính biên chế của trung đoàn trước mỗi chiến dịch khoảng
1.200 người thì trong 10 năm chiến đấu và công tác, trung đoàn đã hơn 12 lần bị
xoá sổ. Đây là số liệu của Nguyễn Xuân
Chín - Nguyên trợ lý thống kê Ban quân lực Trung đoàn cung cấp, một con số ít
người nghĩ tới. Nhưng khi đặt bút tính lại thì thấy đó là một con số quá nhỏ bé
đối với những ai đã từng bước ra từ cuộc cuộc chiến: 12.700 người/(365ngàyx 10năm=3650
ngày)=3,5 người/ngày. Bởi chỉ tính riêng một ngày cuối tháng 11/1974, trong chiến
dich đánh chiếm dãy Mỏ Tàu, gần 500 trăm tân binh vừa được bổ sung 3 ngày trước
sau chiến dich bất thành rút quân ra chỉ
còn chưa đến 50 người mình đầy thương tích. Từ đài quan sát đóng trên điểm cao
144 tháp tùng Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh lui về sở chỉ huy tiền
phương, anh đi như lê từng bước, tôi cố gắng động viên, an ủi anh:
- Chuyện đã rồi, đường lên đỉnh Mỏ Tàu
dốc như thế, pháo bầy bắn theo sào theo mẫu như thế, ai chỉ huy cũng thế cả
thôi, làm sao mà tránh khỏi thất bại hả anh.
- Anh vẫn biết thế, nhưng vừa đi cưới
vợ về, thất bại ê chề thế này khó ăn nói với cấp trên, cấp dưới chắc nhiều người
dị nghị.
- Cấp trên thì lo gì, cùng lắm thì
cách chức Trung đoàn trưởng chứ chẳng ai cách được chức làm chồng của anh là được
rồi, còn cấp dưới chẳng ai trách cứ anh đâu, ác liệt như thế anh em biết cả,
Gia Cát Lượng sống lại cũng ôm đầu máu mà chạy.
- Lúc này mà mày vẫn còn đùa được.
Đang đi bỗng anh đứng lại ngó vào bên
lề đường, nơi có vài ngôi mộ được lính vận tải vừa chôn tối hôm qua. Anh bước
vào và bật khóc. Tôi chưa hiểu anh khóc vì lý do gì, tiếng anh rất nhỏ lẫn
trong tiếng nấc nhưng tôi vẫn đủ nghe :
- Anh bất lực, anh xin lỗi các em, để
các em phải chết oan uổng thế này, mong các em phù hộ cho Trung đoàn ngày mai
đánh thắng.
Anh quay lại tôi :
- Em ở lại gặp mấy cậu ở đại đội vận tải,
cùng họ chôn lại ngôi mộ này, anh về một mình cũng được.
Anh bước đi, ba ngôi mộ nông choèn hiện
ra trước mắt tôi. Trời đất ! Một ngôi mộ 2 bàn chân còn nhô lên mặt đất. Có lẽ
tử sỹ quá nhiều nên anh em vận tải đào cạn chôn vội trong đêm.
Xong công việc về tới sở chỉ huy tiền
phương, một cảnh tượng tan hoang, 2 thi thể bị bom Napan cháy đen, hỏi ra thì
được biết đó là thiếu tá trung đoàn phó Trịnh Khắc Đuổi và
cậu Khu công vụ của ông, người một năm trước nôn thốc nôn tháo khi ăn chè lương
khô. Anh Thanh đang ngồi gục đầu dưới một gốc cây, chạy về chiếc lán nửa chìm nửa
nổi làm cho anh Thanh và tôi, chiếc bồng đựng tư trang của 2 người đang leo lét
cháy, dập được lửa thì mọi thứ đã cháy sém, chiếc ví da đựng ảnh và 167 đồng tiền
miền Bắc chỉ còn lại 2/3. Tôi cứ tiếc hoài , nếu ảnh người yêu và số tiền đó
khi đi trên đất Lào đem đổi gà và chó cho đồng bào thì cả tiểu đội ăn mấy ngày thoả
nỗi thèm thuồng.
Mười năm gian khổ ác liệt đói khát và chết chóc là vậy, nhưng tháng 3/ 1975 đánh chiếm TP Huế thì lại quá dễ
dàng. Nếu Đại đội trưởng trinh sát Phạm Văn Lân (Hải phòng) không vì lòng tốt của
mình thì cả Trung đoàn không hề mất một viên đạn và cũng chẳng hy sinh thêm ai.
Đại đội trưởng Lân dẫn một số cán bộ luồn sâu nắm tình hình đối phương. Sáng
25/3/75 vượt qua sông Hương trong yên tĩnh, khi lên bờ đi qua một căn nhà bỏ
không, cửa mở toang, khi vừa chạm tay vào cánh cửa thì bất ngờ một quả mìn Cờ-Lây-mo
nổ trùm lên đội hình cả tổ, khi mấy người bộ binh chạy đến thì anh chỉ còn thều
thào:
- Mình thấy căn nhà bỏ không, cửa mở, định
khép lại giúp họ…
Nói được chừng ấy rồi anh tắt thở, 2 người cùng đi với anh là liên lạc Phạm Dự
(Thái bình), trinh sát viên Phúc (Hà Nam) cùng chung số phận. Sau đó được biết
đấy là nhà của một viên sỹ quan quân lực
VNCH, trước lúc rút chạy đã kịp cài lại quả mìn trước cổng nhà mình.
Năm 1996 khi vào thành phố Huế công tác, biết
hài cốt các anh năm 1979 đã được qui tập về nghĩa trang Thuỷ Bằng, tìm mãi chẳng
thấy tên 3 người tôi cùng mấy CCB Trung đoàn tìm gặp cô Êm - Xã đội trưởng
dân quân năm ấy, được cô cho hay:
- Năm ấy cất bốc cả mấy trăm hài cốt, 3
người của trung đoàn 6 chỉ mới được 4 năm, quá hôi thối, những người dự lễ
không chịu được nên tôi cho đưa lên trước, chôn ở hàng trên cùng từ trái sang
phải. Chết bom đạn trên rừng mà mất mộ, mất tên thì còn chấp nhận được, đằng
này chết khi TP đã giải phóng thì đau lòng lắm. Chúng tôi quyết định mời thân
nhân 3 gia đình vào bàn cách trả lại tên cho mỗi người. Khi khai quật cả 3 ngôi
mộ, cậu Dự có hàm răng khểnh như đang cười cùng chúng tôi. Tôi và Dự thương
nhau lắm, cậu ấy là người thay tôi làm liên lạc đại đội khi tôi lên làm công vụ
cho Trung đoàn trưởng. Cậu Phúc và anh Lân thì quá rõ ràng. Phúc cao kều
còn anh Lân người thấp đậm. Gia đình anh Lân không thể vào được nên Hội CCB- E6 tại
TP Huế cử Nguyên Xuân Chín và Lê Văn Lý mang hài cốt anh về giao cho gia đình tại
quê nhà tại Thuỷ Nguyên – Hải phòng. Lần đầu tiên tôi đã cùng anh em CCB làm được
một việc nghĩa đối với đồng đội đã ngã xuống chiến trường năm xưa./.
Bữa cơm chiều ngày 22/3/75
của Ban chỉ huy Trung đoàn có cả thịt gà luộc và gà nấu xáo. Vào bữa ăn , anh
Thanh hỏi:
- Thịt gà đâu mà nhiều thế này ?
- Cả hai con nuôi bấy lâu nay em thịt luôn.
Trung đoàn sắp chuyển đi em đâu mang theo được.
Anh Hộ chính ủy hỏi với vẻ xoi mói :
- Ai bảo với cậu Trung đoàn sắp chuyển đi ?
- Em thấy mấy anh ở Ban Cơ yếu đan lồng nhốt gà
2 hôm nay.
Anh Thanh nhận xét :
- Thằng này tinh như con cáo.
Chính ủy Hộ lại nhìn một góc độ khác:
- Nếu thằng này là điệp viên của phía bên kia
cài cắm vào thì mọi động tĩnh của Trung đoàn không qua nổi mắt hắn.
Tôi nhanh nhảu đáp lại :
- Như vậy là 2 thủ trưởng thừa nhận trung đoàn sắp
hành quân đi xa rồi ?!
Anh Thanh mắng yêu :
- Cái thằng… !
Chả là từ ngày lên làm công
vụ cho trung đoàn tôi có thói quen quan sát mọi động tĩnh của Ban cơ yếu, đó là
cơ quan nhận và dịch mật điện, nhà hoặc hầm bao giờ cũng bố trí gần chỉ huy Trung
đoàn. Trong ban có anh Nga, người Kim Liên cách xã tôi chỉ một con đường 46, là
lý do để tôi tiếp cận làm thân với mọi người. Ai cũng thương yêu và mến tôi,
hơn nữa không dại gì mà họ không yêu tôi, thậm chí nhiều người còn nịnh tôi bởi
họ biết rằng : Trong các bữa cơm của Ban chỉ huy, một lời nhận xét tốt dù vô
tình hay cố ý về ai đó đều có lợi cho họ, tôi chẳng khác gì nô tài cho Hoàng
thượng. Ban Cơ yếu có một qui định bất thành văn là khi tấm vải đen đã được kéo
ra che cánh cửa thì kể cả Trung đoàn trưởng cũng không được bước qua. Tôi phát
hiện ra điều này: Khi họ làm việc thì có tiếng máy phát điện quay tay chạy vo
vo và tiếng mooc tín hiệu tích ! Tè !, Nếu tấm vải che kín, không có 2 thứ tiếng
đó là nhất định họ đang làm điều khuất tất, hoặc là bắn thú rừng về làm thịt ăn
riêng, hoặc ai đó vào bản xin được mấy củ sắn về luộc ăn cho đỡ đói. Mỗi lần
như thế tôi đứng ngoài tấm vải nói khẽ:
- Không cho em là em mách chính ủy.
Thế là từ trong tấm vải một cánh tay thò ra kèm
theo miếng sắn luộc hoặc thamh lương khô.
Điều tôi dự đoán đã không sai. Ngày 24/3/75 toàn
Trung đoàn lặng lẽ rút khỏi hậu cứ Khe Rùa, theo bờ Nam sông Tả Trạch luồn qua
2 điểm cao do Quân lực VNCH chốt giữ là Đá Đen và Hòn Kệ. Tối hôm đó đội hình
đi đầu đụng vào tốp lính từ Hòn Kệ rút chạy, 2 bên choảng nhau nhưng không ai
việc gì. Nhận được tin, ban chỉ huy trung đoàn nhận định: Đội hình hành quân đã
trúng ổ phục kích của đối phương và cho dừng chân tại xã Dương Hòa. Tối 25/3 tiếp
tục tiến về Xã Thủy Bằng, qua lăng Khải Định, lăng Tự Đức chạy qua cầu Bạch Hổ
để vào Đại Nội. Khoảng hơn 7 giờ sáng ngày 26/3 bộ phận đi đầu của Trung đoàn hạ
lá cờ nửa xanh nửa đỏ trên cột cờ Phu Văn Lâu xuống và kéo lá cờ của trung đoàn
mang từ hậu cứ lên, với lý do : Lá cờ của trung đoàn to hơn, sau này được biết
lá cờ bị kéo xuống do E101 F325 cắm trước đó lúc 12h ngày
25/3/75. Chiều 26/3 toàn trung đoàn đã chiếm lĩnh các vị trí được phân công.
Chúng tôi vào khi thành phố lặng yên, thỉnh thoảng gặp vài cụ già, chắp tay
chào:
- Con chào các ông ! ( Cách xưng hô như lính bên
kia khi gặp chỉ huy)
Dân TP Huế như chim đậu cành cong, họ đã có bài
học xương máu từ năm Mậu Thân - 1968, chưa mấy ai dám biểu lộ tấm lòng mình.
Sau này được biết, đường
tiến quân của Trung đoàn là do Bộ tổng tham trực tiếp vạch ra, đó là con đường
ngắn nhất và bí mật bất ngờ nhất để tiến vào Thành phố nhanh chóng và an toàn nhất. Cấp trên
có ý định tạo điều kiện thuận lợi để E6 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lần
thứ 2. Nhiều người coi đó cũng là điều hợp tình bởi Trung đoàn trưởng Trương
Đình Thanh là con rể của Tư lệnh kiêm Bí thư Quân khu ủy - Thiếu tướng Hồ Tú
Nam, tên thật là Nguyễn Văn Thanh cũng là một người quê Quảng Bình, mặc dù chị
Thu Sen vợ anh Thanh chỉ là con nuôi nhưng được ông cưu mang từ thưở thiếu thời
và coi chẳng khác gì con đẻ .
Lúc đầu vào thành phố tôi
và anh Thanh được bố trí ở ngôi nhà số 26 đường Ông Ích Khiêm nằm trong Đại Nội,
nhà số 24 là của viên thiếu úy sỹ quan Quân lực VNCH tên là Nam, nhà có cô em
gái tên là Hồng. Ngoài tình cảm quân dân, cô ấy nhanh chóng bị tôi chinh phục bởi
nhiều tài vặt, điều cô ấy thán phục nhất là giúp cô ôn lại chương trình toán lớp
12 mà cô đang dang dở vì chiến tranh. Khi biết tôi là sinh viên khoa toán ĐHSP
Vinh, cô ấy tròn mắt hỏi:
- Sao anh học hành như vậy mà lại chịu đi làm đầy
tớ cho ông kia, ông kia chắc cũng học cao lắm? ( Khi ấy anh Thanh mới chỉ học
xong lớp 7)
Cô ấy gọi công việc của tôi là “đầy tớ”. Khi đã
thân quen, tôi mang khẩu Tô-zet 8 cùng cô ấy ra mấy cây cổ thụ bắn chim, chim bồ
câu trời sao thân thiện với con người đến vậy, súng nổ là chim rơi, cô ấy nhận
xét:
- Lính anh Nam nhà em thua các anh là phải, các
anh bắn như trong phim. Có điều lính bên bọn em không ai bắn chim trong Đại nội
này đâu. Sau này tôi mới hiểu, câu nói “Lính bên bọn em không ai bắn chim trong
Đại nội này đâu” như một lời cảnh báo để nói rằng : Các anh tàn nhẫn lắm.
Chỉ một thời gian rất ngắn
sống bên số nhà 24 đã để lại trong tôi nhiều ký ức sâu đậm. Anh trai cô ấy luôn
tránh mặt tôi nhưng khi trung đoàn bộ chuyển sang đóng trong khu nhà cụ Ngô
Đình Cẩn , anh đã tặng tôi bức ảnh gia đình với dòng chữ “Gửi em tấm hình - Nhớ
em nhiều” , khi viết tới đoạn này, vợ tôi chạy đi tìm bức ảnh nhưng đã không
còn. Tôi không trách các con bởi chúng đã loại bỏ những bức ảnh ố vàng bong
tróc trong chiếc album để lồng vào đó những bức ảnh mới, chúng đâu hiểu được
giá trị sâu xa sau bức ảnh. Nếu ngày ấy tôi chưa có Viên Bạch Ngọc và cứ tiếp tục
sống cạnh ngôi nhà ấy thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra và đời tôi không biết
kết cục sẽ như thế nào.
Sống với nhân dân thành phố
một thời gian, họ hiểu được bản chất những người lính chúng tôi. Nói theo cách của
họ: “Hiền chi mà hiền dữ !”. Đúng thế, nhiều anh bị mấy cô học sinh trêu chọc
còn đỏ cả mặt, họ yêu chúng tôi ở đức hiền lành, thật thà, trong sáng và nhiệt
tình giúp đỡ nhân dân. Những hôm đi làm thủy lợi giúp dân thì khỏi phải nói,
anh nào anh nấy lấm như trâu đầm song không ai kêu mệt. Và điều gì đến sẽ đến, đã xuất hiện những cặp
đôi hoàn hảo, những anh lính giải phóng đi bên những cô nữ sinh áo dài màu tím
thướt tha . Giáp K6 và Huyền là một cặp đôi điển hình. Những ngày nghỉ 2 người
lại ngồi trên chiếc xe Honda 50 lượn khắp TP Huế,
có hôm người ta còn thấy 2 người nằm ngắm trời mây bên bờ Nam sông Hương, chiều
hoàng hôn mặt sông như dát vàng, 2 người quên cả ăn, quên cả về đơn vị khiến có hôm chỉ huy phải cử người đi tìm.
Huyền đã chủ động đề nghị Giáp xin phép về Hà Tĩnh báo cáo bố mẹ vào thưa chuyện
với bố mẹ mình, Giáp thành thật bảo:
- Chưa được đâu. Để anh báo cáo đơn vị có cho
phép không đã chứ.
Huyền ngây thơ hỏi lại :
- Sao kỳ vậy, trai gái yêu nhau cũng phải được
chỉ huy cho phép là sao ?
Huyền cùng Giáp đến gặp chỉ huy thật, sau khi
nghe 2 người trình bày, vị chỉ huy mặt lạnh như tiền:
- Không được. Lính giải phóng chúng tôi không
quan hệ với đối tượng như cô, cô là con sỹ quan Ngụy, làm sao chúng tôi ngồi
cùng mâm với những người vừa bắn giết chúng tôi được .
Chẳng đợi vị chỉ huy nói hết, Huyền thanh minh:
- Bố em là sỹ quan thật đấy nhưng ông ấy là bác
sỹ, cả đời ông có bắn giết ai đâu.
- Là bác sỹ chữa lành cho lính để nó quay lại bắn
chúng tôi, như thế mà vô tội được à ?
Cuộc tranh luận còn kéo dài, cuối cùng vị chỉ
huy khẳng định:
- Tôi đã nói không được là không được từ nay yêu
cầu 2 người chấm dứt mối quan hệ này đi.
Từ đó quan hệ giữa 2 người không những không chấm
dứt mà còn diễn ra một cách công khai hơn, như để thách thức ,trêu ngươi.
Nhiều cuộc họp để kiểm điểm Giáp được tiến hành.
Giáp bị phê bình nào là không có lập trường quan điểm bạn thù, mơ hồ mất cảnh
giác ăn kẹo bọc đường của kẻ thù. Cuộc họp tối 20/7/75 trong khi chính trị viên
đang thao thao bất tuyệt thì Giáp đứng dậy đi ra cổng cầm tay Huyền đang đứng dấu
mình theo dõi kết quả buổi họp rồi bỏ về nhà…
5 giờ sáng ngày hôm sau đài quan sát đóng trên tháp chuông nhà thờ Phú
Cam báo về: Phát hiện 2 ánh chớp của 2 loạt AK nổ trên đỉnh núi Ngự Bình, khi mọi
người chạy lên thì thấy 2 thi thể lõa thể nằm đè lên nhau. Các đơn vị khẩn
trương điểm danh quân số, B3 C1 K6 vắng Trần Đình Giáp.
Được về sống
trong lòng dân, mà lại là dân thành phố Huế mới diễm phúc làm sao. Mấy năm ở rừng
thân phận chúng tôi chẳng bằng con khỉ, con khỉ còn được nhảy múa tung tăng,
nơi nào có bom đạn thì nó chạy vào rừng sâu. Còn chúng tôi nơi nào nhiều bom đạn
lại đương đầu ra hứng chịu, anh nào không chịu được lui về tuyến sau thì bị quy
tội thoái thác nhiệm vụ, giảm sút ý chí chiến đấu. Con khỉ đói thì có hoa quả
lá rừng, chúng tôi đói các thứ ấy cũng đâu có mà ăn, những cao điểm lính ta chốt
giữ bom xới tung lên như đất bột. Đói đến mức mà sau mỗi trận giành thắng lợi,
việc làm đầu tiên là tìm hố rác trên căn cứ vừa chiếm được moi tìm hộp giò Ba
lát của chúng bỏ lại thi nhau ăn, mặc cho xác chết còn nằm ình ra đó, còn sống
là phải ăn cái đã, ăn no một chút thì càng tốt, kẻo nhỡ ra bữa tiếp theo lại
không có mà ăn. Xác chết ư ? Sợ gì ?Ngày mai ngày kia rồi cũng đến lượt mình nằm
ình ra như thế. Chúng tôi thông báo cho nhau về cái chết của bạn bè, đồng đội
bình thường lắm: Thằng A, B,C…chết rồi! Chết ở mô? Chết ở Sơn Na. Cái chết như
một điều hiển nhiên. Ngày ấy chúng tôi còn trẻ lắm đều trên dưới hai mươi, sức
sống tràn trề, mãnh liệt. Ở cái tuổi ấy nhiều hôm ngước nhìn lên ngọn cây bắt gặp
cảnh lũ khỉ ân ái nhau mà mặt thằng nào thằng nấy ngây ra như kẻ mất hồn.
Được về với dân là cơ hội để chúng tôi được trở lại làm người tử tế. Ngày còn đối
mặt trên chiến tuyến, những người lính ở cả 2 phía giống như những kẻ khát máu,
bắn đối phương ngã gục nếu người kia chưa buông súng khỏi tay thì sẽ bồi thêm
vài ba phát nữa, sợ anh ta giả vờ chết quay lại bắn mình. Khi giáp lá cà, lưỡi
lê đã cắm phập đúng tim, chỉ cần rút lưỡi
lê ra là hết phương cứu chữa, thế nhưng khi người ấy ngã vật ra còn tiếp
tục đâm năm bảy nhát cho hả giận, cứ như người ấy vừa giết chết cha mẹ mình. Về
với dân là cơ hôi được biểu lộ tình cảm chân thật của mỗi người, được quan hệ
tiếp xúc với nhân dân, để được dân yêu thương, đùm bọc chở che. Những ngày đầu dân còn dè dặt,
nhưng một thời gian rất ngắn mọi ngăn cách đã không còn. Không ai nỡ ghét bỏ
chúng tôi, những người lính hiền lành thật thà đến ngây ngô. Vào chợ Đông ba
mua một chục chanh chỉ lấy đúng 10 quả trả lại số dư thừa ,chứ biết đâu dân Miền
Nam sớm tiếp xúc cơ chế thị trường để thu hút khách hàng mua một chục sẽ được
khuyến mại thêm 2 quả, có người thêm 4 quả. Mấy chị bán hàng đấm vai nhau cười,
chẳng biết họ cười vì lý do gì. Có anh còn thật thà bảo:
- Các chị đếm sai còn cười gì nữa.
Ai đã một vài
lần tiếp xúc đều sẵn lòng đùm bọc thương yêu. Họ sẵn sàng gả con gái cho nếu có
cảm tình với con gái họ mà không tính toán thiệt hơn, thậm chí cũng chẳng cần
tìm hiểu đã có vợ hay chưa. Có người cảnh giác khuyến cáo: Họ muốn gả con gái
cho chúng tôi là muốn tìm một chỗ dựa, một chỗ nương thân nếu có cuộc tắm máu xẩy
ra. Đó là quan niệm của những người cực đoan. Nếu cần tìm một chỗ dựa họ phải
tìm đến những sĩ quan chỉ huy, người có quyền lực. Đằng này những cặp đôi mà
tôi được biết đều là những mối tình trong sáng hồn nhiên và không kém phần mãnh
liệt. Giáp và Huyền là một cặp đôi như thế.
Vụ án mạng xẩy
ra, chẳng khác gì quả bom tấn nổ
giữa lòng thành phố sau chiến tranh. Ban chuyên án được thành lập, sợ cấp dưới
báo cáo không trung thực, thời gian này chị Thu Sen đã về ở cùng để có cơ hội chăm sóc chồng. Việc bếp
núc của tôi tương đối nhàn hạ nên anh Thanh giao cho tôi bí mật theo dõi sự việc.
Trong ban chỉ huy có người đề nghị phải xử vụ này thật nghiêm khắc để làm gương
cho nhiều người khác, thậm chí đề nghị tước quân tịch của Giáp trước khi đem đi
mai táng, nhưng anh Thanh thì không, anh ấy bảo:
- Dư luận của vụ án đã là một lời cảnh
báo sâu sắc với mọi người, cậu ấy đã chết, nghĩa tử là nghĩa tận, cho mai táng
như một tử sĩ, sau đó báo cho gia đình biết, bởi trường hợp này không thể coi
là liệt sĩ.
Sau khi khám
nghiệm tử thi và hiện trường, kết luận : Huyền chết bởi 2 viên đạn vào ngực,
toàn thân không có viết xây xước, vùng kín có tinh dịch đàn ông. Giáp nằm chéo
trên thi thể Huyền, một đường đạn đi từ cằm dưới lên đỉnh đầu chứng tỏ Giáp đã
dùng ngón chân cái đạp cò khẩu AK…Kết luận :Cô gái đã tự nguyện trao thân cho
người con trai và để người con trai bắn mình trước lúc anh ấy tự sát. Tôi
thoáng nghĩ: Một kết luận phần nào có lợi cho Giáp.
Bố Huyền từ trại cải tạo vừa được cho về
gặp con. Khi xe đơn vị lên đưa xác Giáp về, ông ấy rụt rè bước ra nói :
- Tôi có một đề nghị nho nhỏ mong các
ông chấp nhận cho: Dù sao 2 đứa chúng nó cũng đã thực sự thương nhau và cũng thực
sự nên vợ nên chồng. Xin các ông cho 2 đứa
được nằm bên nhau dưới chân đồi này, rồi đây gia đình tôi
không thể ở lại. Cho chúng nằm bên nhau để chúng đỡ tủi thân
Tôi nghe một vài tiếng xì xào:
- Ông ấy là sĩ quan Cộng hoà đấy, ông ấy
là bác sĩ quân y
- Ông ấy là bác sĩ, là cấp uý nên chỉ
phải tập trung cải tạo ở Bình Điền.
Việc ông đề nghị thật tình người nhưng đơn vị không ai dám quyết
đành phải báo mời gia đình Giáp vào để 3 bên thương lượng.
Gặp con trong hoàn cảnh ấy, bố giáp khóc
như mưa như gió:
- Con ơi! Bao năm chiến trường con
không chết, về đây con chết vì một người con gái, sao con nông nổi, dại đột thế
con ơi !
Chẳng ai cầm
được nước mắt. Khi đã bình tĩnh lại ông đề nghị cho phép mang con về chôn cất tại
quê nhà. Bố Huyền chạy ra quỳ lạy trước mặt bố Giáp, ông nói rành rõ từng lời:
-Tôi xin anh, tôi cắn rơm cắn cỏ xin
anh, xin anh để cháu lại đây cùng con gái tôi, tôi với anh vừa mới biết nhau,
nhưng các cháu biết nhau 3 tháng nay rồi, cháu cũng đã một vài lần lên thăm
tôi, dẫu chưa cưới xin chi nhưng chúng nó cũng đã thương nhau như vợ chồng. Anh
nghĩ mà xem, trên trận tuyến nó không chết vì súng đạn của chúng tôi, về đây lại
chết bởi súng đạn của nó, anh đưa nó về quê dân làng biết chuyện họ còn coi
cháu ra gì. Hơn nữa để nó nằm đây còn được làm bạn với nhiều chiến hữu của nó…Ông
nói, có lẽ ông đã cạn từ để nói mong bố Giáp chấp nhận.
Còn bố của
Giáp sau 2 ngày vật vã, câu nói của bố Huyền như như xé nát óc ông. Ông ấy nói
đúng:”Dân làng biết chuyện, họ còn coi cháu ra gì nữa”. Cuối cùng ông quyết định
để Giáp nằm lại bên người con gái mà anh điên cuồng thương yêu. Năm 2015 vào dự
kỉ niệm 40 năm giải phóng Huế gặp mấy CCB trung đoàn lấy vợ, định cư và công
tác tại Huế tôi kể:- Mấy
năm trước bố mẹ Huyền gửi tiền về xây lăng mộ cho 2 người đẹp lắm. Không hiểu
vì tâm linh hay vì quá cảm xúc khi viết lại chuyện này mà 2 đêm liền tôi nằm mơ đang đi tìm mộ 2 người, trên đường đi gặp nhiều đồng đội nằm, ngồi trên
những bờ ruộng chỉ lối cho tôi thật nhiệt tình. Nếu không có gì đột biến về sức khỏe năm 2017 tôi sẽ đi theo con đường mà các đồng đội năm
xưa đã chỉ dẫn xem hư thực thế nào. Đến để thắp hương cho 2 người. Dù gì thì
Giáp với tôi 42 năm trước và cho tận bây giờ vẫn là đồng đội của nhau. Dù Anh
không nằm trong nghĩa trang Liệt sĩ,
nhưng bù lại 42 năm qua vợ chồng Anh vẫn bên nhau, còn hạnh phúc hơn nhiều so với
3 thầy giáo và 64 sinh viên ĐHSP Vinh nhập ngũ cùng tôi vẫn còn nằm lại rừng
sâu đến nay vẫn chưa tìm được mộ, nếu có được quy tập về nghĩa trang liệt
sỹ thì cũng trở thành vô danh.
Những tưởng vụ trọng án Giáp – Huyền đủ thức tỉnh trái tim những vị chỉ
huy vô cảm, nào ngờ cách đó không lâu lại xẩy ra vụ án còn nghiêm trọng hơn tại
đại đội thông tin của trung đoàn làm 3 người thiệt mạng…
Ai đã từng đến Huế dù đi hết lăng tẩm các triều vua chúa Nguyễn,
dù thưởng thức hết bánh Nậm, bánh Bèo, bánh xèo , bánh Ít, xuống Cồn ăn cơm hến…nhưng
chưa vào Thuỷ Dương thưởng thức hương vị của bánh canh cá lóc thì cũng coi như
chưa đi thấu Huế. Món ăn tuy dân dã nhưng hội đủ hương vị, bản sắc của con người
xứ Huế. Cũng dùng bát để đựng thực phẩm nhưng không to như bát ở nhiều quán phở
Bắc - Nam . Ăn vào tiết trời se lạnh thì càng tuyệt, vị cay nồng của tiêu của ớt
quyện lẫn mùi thơm của cá lóc đồng, cái dai dai của bột lọc được cán bằng chiếc
ống tre láng bóng, thái thành sợi và luộc ngay trên bếp.. điều cơ bản là giá cả
hợp túi tiền bình dân, thậm chí còn quá rẻ. nghe nói mỗi bát chỉ vài hào, tuy với
đồng phụ cấp ít ỏi vẫn đủ tự thưởng cho mỗi thằng vài ba bát, ăn cho đã thì
thôi. Tiếng thơm của món đặc sản làm nước bọt của cánh lính trẻ chúng tôi ứa ra
đầy miệng. Từ nơi đóng quân trong nhà dân quanh nhà thờ Phú Cam đi vào trong ấy
khoảng 8 km, nhưng chẳng sao, không bắt được xe đò thì đi bộ, cũng chỉ 1 giờ 30
phút là đến nơi . Sáng chủ nhật hành quân khám phá. Ngày ấy quán bánh canh
không nhiều như bây giờ. Cậu Kết (Bắc Thái) ở Đại đội thông tin làm liền một mạch
5 bát, ăn xong đứng dậy vỗ vỗ bụng:
- Chủ nhật sau vào tiếp.
Cô con gái bà chủ cười như chưa hề được cười,
khi thanh toán, bà bảo con gái:
- Thôi, tính tiền chú ấy như các chú khác, mỗi
người 3 bát.
Kết không chịu và nhất định trả đủ số tiền:
- Nếu mạ làm thế lần sau con không dám vào nữa
đâu!
Chủ nhật sau Kết rủ mấy người nữa vào thật, Kết nửa đùa nửa
thật:
- Từ nay ngày chủ nhật, mạ cho con làm chân bưng
bê, con không lấy tiền công đâu, coi như giúp mạ.
Kết nói và làm thật, nhiều hôm không ai đi Kết vẫn
đi, rồi điều gì đến đã đến, cô gái con bà chủ đem lòng yêu thương người con
trai có tính tình vẻ như bổ bả nhưng chân thành và nhiệt tình. Điều kỳ lạ là từ
ngày có sự xuất hiện của Kết, quán đông khách hơn. Mẹ con bà chủ có cảm giác
như từ nay không thể thiếu chàng trai nói giọng Bắc này nữa .Tính cảm 2 người
sâu nặng đến mức mà mấy cậu cùng đại đội hỏi:
- Mày đã làm chi cô ấy chưa?
- Bậy nào. Làm thế cô ấy coi tao là thằng cơ hội
à? Tao phải làm thật đàng hoàng. Phải mời chúng mày về quê tao dự cưới. Chúng
mày thử nghĩ xem: Khi nhiều thằng đi không có ngày về, còn tao không những về
mà còn về hai. Cả làng phải lác mắt.
- Sao nhiều đêm mày về muộn thế ?
- Về muộn đâu phải ở lại để làm trò chim chuột.
Tất nhiên Kết đã không tránh khỏi vi phậm kỷ luât Quân đội và
quy định của đơn vị. Không những một lần mà nhiều lần, lần nào Kết cũng chấp nhận
mọi hình thức của đơn vị đưa ra. Tất cả đều như nước đổ lá môn, có lần sau khi
nhận hình thức kỷ luật xong, Kết nói:
- Hình thức gì tôi vẫn chấp hành, có điều tôi vẫn
yêu cô ấy, đi vào trong ấy tôi vẫn đi, còn đi thì còn khuyết điểm, mong các đồng
chí một vừa hai phải thôi, lòng kiên nhẫn của tôi có hạn.
Những tưởng hình thức kỷ luật nặng hơn sẽ răn đe được Kết. Buổi
kiểm điểm tối hôm ấy Đại đội trưởng Nựu cố ép mọi người biểu quyết hình thức kỷ
luật: Cảnh cáo toàn đại đội. Đại đội trưởng ép mãi và rồi nhiều người giơ tay
biểu quyết. Kết chẳng nói chẳng rằng, bỏ về nhà trọ nằm ngủ…
Sáng hôm sau, toàn Đại đội đang tập thể dục buổi
sáng trong khuôn viên nhà thờ Phú Cam…
|
Nhà thờ Phú Cam - TP Huế |
Pằng ! Pằng! Pằng…
Đại đội trưởng Nựu đổ gục ngay từ loạt đạn đầu
tiên. Nhiều người nhanh chân chạy vào góc khuất các bức tường ẩn nấp. Khẩu AK
tiếp tục nhả đạn, một số người nằm rạp xuống bãi cỏ.
Ngỡ đã tiêu diệt xong, Kết quay súng kết liễu đời
mình.
Rất may Kết là lính thông tin, chưa đánh nhau
bao giờ, nên khi bắn Kết để súng nằm dọc, đạn chủ yếu bay lên trời. Khi thấy Kết
đã đổ vật, khẩu AK đã văng ra, mọi người hoàn hồn, chạy đến đưa Nựu đi cấp cứu,
vết thương quá nặng nên sau 3 ngày anh ấy đã qua đời. Một nữ tu sỹ đang quét lá
khô gần đấy bị một viên đạn cắm vào đầu, chết ngay tại chỗ.
Sau rất nhiều thủ tục pháp lý, cuối cùng vì chưa có
doanh trại nên quan tài Kết được quàn ngay hành lang nhà thờ. Trước lúc đồng đội
đưa anh về nơi yên nghỉ, một chiếc xe đò dừng lại trước cổng nhà thờ Phú Cam, mấy
người dìu người con gái trong trang phục áo dài màu tím, cô đặt lên quan tài bó
hoa tươi rồi ngã vật xuống đất, mọi người dìu cô lên xe ra về. Tưởng chừng như
mối tình gặp nhiều ngang trái đã chấm dứt tại đó. Nhưng không! Những lần đi tìm
mộ bạn có dịp đi vào Huế, tôi dẫn mọi người vào Thuỷ Dương vừa thưởng thức món
bánh canh cá lóc vừa chiêm ngưỡng chứng nhân của mối tình oan nghiệt. Cô gái ấy
đã thay mẹ làm chủ, người bưng bê cũng là một cô gái, ngỡ là con cháu bà chủ.
Nào ngờ ! Cô ấy đã không lấy chồng, ở vậy thờ người con trai mà cô suốt đời hối
tiếc:
- Giá như ngày ấy tui có với anh ấy một đứa con.
Có thể nói, nhiều anh lính của Trung đoàn sau khi giải phóng
Huế lấy vợ và định cư ở Cố đô phải cảm ơn Giáp và Kết. Cái chết của 2 người như
những dũng sỹ cảm tử đánh vào thói đố kị, ích kỷ hẹp hòi của một số cán bộ chỉ
huy. Người như Đại đội trưởng Nựu đã phải trả giá, những người khác cũng đã có
cách nhìn thoáng hơn về tình yêu đôi lứa, hoặc không dám làm căng như đã từng
hành xử đối với 2 người, không còn cấm đoán hoặc răn đe như trước đó.
Được về sống với dân như nắng hạn gặp mưa. Được
dân tin yêu nên tình yêu của những anh lính giải phóng với các cô gái địa
phương như hoa đua nở. Chỉ sau một thời gian rất ngắn, nhiều anh đã có nơi để
mà hò hẹn, có chốn đi về. Trong số ấy đã có 8 cặp thành vợ thành chồng song cũng
không ít cặp bởi nhiều lý do khác nhau đã thành dang dở. Trong những cặp nên
duyên, không ít cặp sau đó được hưởng lộc của thân nhân bên vợ nguyên là sĩ
quan Quân lực VNCH . Nổi bật nhất là cậu Chín - Nguyên trợ lý Ban quân lực, là
cặp vợ chồng đầu tiên tại TP Huế xây khách sạn tư nhân vào năm 1993 với 15 phòng đến nay vẫn chưa hề lạc
hậu. Vợ chồng sinh được 2 gái 1 trai, cô gái cả làm dâu bên Mỹ, cô gái út định
cư tại Na uy. Ngày mồng 4 tết vừa rồi cả 2 vợ chồng đã bay sang Mỹ theo bảo
lãnh của con gái, khách sạn Huy Hoàng số 16 đường Nguyễn Trường Tộ, TP Huế giao
cho con trai quản lý, điều hành. Trong những năm qua KS của Chín chẳng khác gì
trạm giao liên của CCB, là nơi trung chuyển thông tin tới tất cả anh em CCB của
Trung đoàn 6 đang sống rải rác trên 64 tỉnh thành. Là trạm nghỉ chân của nhiều
gia đình đi tìm hài cốt người than và cũng không ít người mẹ đến đó để mong tìm
được người cha cho con với nhiều lí do, cha nó đã cao chạy xa bay từ ngày con
còn nằm trong bụng mẹ.
Đầu xuân năm 2005 một chàng trai lịch lãm nói giọng
Huế đến chúc mừng năm mới và nhờ Chín tìm gặp một người có tên là Ấn, chàng
trai buồn rầu tâm sự:
- Mẹ cháu bảo: Nếu ba cháu không nói dối thì quê
ông ấy ở tỉnh Quảng Ninh, ông ấy quen biết mẹ cháu khi đơn vị ông về Phú Vang
quê cháu giúp dân làm thuỷ lợi. 29 năm nay mẹ cháu vẫn sống vậy nuôi cháu mà bà
không sợ điều tiếng gì bởi ở quê ai cũng biết cháu là con ba Ấn. Mẹ cháu nghĩ
ông ấy đã bạc tình vậy thì cũng chẳng cần tìm ông ấy nữa và nhất quyết không
cho cháu đi tìm. Nhưng không hiểu sao bây giờ mẹ cháu lại cần ông đến thế !? Bà
nhất thiết bắt cháu phải nhờ các bác tìm ông ấy cho bằng được.
Năm 2005, đoàn CCB tỉnh Quảng Ninh vào Huế dự kỷ niệm 30 năm
giải phóng. Mấy người vẫn còn nhớ như chuyện vừa xẩy ra ngày hôm qua : Ấn là
người hiền lành, hiền lành quá thành nhu nhược, khi biết Bê đã có thai, chính
trị viên đại đội khuyên cậu làm đơn xin xuất ngũ để khỏi tai tiếng cho đơn vị
và cậu ấy đã nghe theo. Về quê, lấy vợ và sinh được 4 con, quá vất vả với mưu
sinh, nuôi các con ăn học chẳng có đồng nào dư giả . Hơn nữa càng ngày càng mặc
cảm với tội lỗi bỏ rơi mẹ con Bê nên chưa một lần dám vào thăm lại “Chiến trường
xưa”, cuộc sống bộn bề vất vả cứ thế trôi dần theo năm tháng.
Khi đã có được thông tin về Ấn, Chín quyết định
báo cho chàng trai và chàng chẳng ngần ngại xin theo đoàn CCB Quảng Ninh về gặp
Ba. Sau nhiều buổi dàn xếp tế nhị của anh em CCB, khi chàng trai xuất hiện tại
nhà, Ấn đứng trơ như phỗng đá, vợ Ấn đẩy chồng về phía chàng trai:
- Ra mà nhận nó đi, nó có khác gì anh mấy chục
năm trước khi anh mang ba lô trở về.
Cuộc hội ngộ diễn ra quá bất ngờ nhưng vô cùng
suôn sẻ bởi tấm lòng nhân hậu của người đàn bà thôn quê mà trời đã ban cho Ấn.
Một số người khuyên chị nên đi cùng chồng vào thăm lại chiến trường xưa, chị ấy
bảo:
- Từ nay đã có thằng con cả ở Huế thiếu gì cơ hội,
lần này để anh ấy đi một mình cho tự nhiên .
Gặp lại chàng trai hiền như đất sau bao năm xa
cách, Bê thều thào hỏi :
- Sao anh tệ bạc thế ?
- Anh xin lỗi mẹ con em, hồi ấy anh còn trẻ,
nông nổi nghe theo lời xúi dục của vài người nên để mẹ con em phải khổ…
Chàng trai nói chen ngang :
- Không khổ đâu ba. Mẹ con con chỉ buồn thôi, buồn
cho mẹ và buồn cả cho ba nữa.
Có lẽ đó là lời trách móc, hờn giận mà không có
lời trách móc hờn giận nào sâu sắc hơn.
Đúng ! Chàng trai nói đúng. Về kinh tế thì mẹ
con Bê không những không khổ mà còn sung túc đầy đủ bởi anh trai của Bê năm
1983 đã được đi theo diện HO, có công việc ổn định tại Mỹ, vẫn
luôn quan tâm đến em gái và đứa cháu bị đối phương bỏ rơi. Chàng trai được sống
trong vòng tay của người mẹ cam chịu và giàu lòng nhân ái nên sớm hấp thu bản
tính của mẹ. Khi tiễn Ấn ra về, chàng bảo :
- Ba mang số tiền này về mua chiếc xe máy mà đi,
số còn lại để các em ăn học, con còn phải ở lại chăm mẹ không biết lúc nào về
ngoài ấy được .
Hai tháng sau lần gặp lại ấy, Bê mãi mãi ra đi bởi
cơn bạo bệnh khi vừa 49 tuổi.
Chuyện tình thứ 4: Đứa con rơi của một người Anh
hùng thời đổi mới- nguyên là CCB Trung đoàn 6.
“Đúng cậu ấy rồi ! Từ dáng
người, quê quán cho đến cái tên đệm cũng không sai. Thằng Xanh đứng bên cậu ấy
chắc nhiều người lầm tưởng đấy là 2 anh em. Thế mà mình cứ nghĩ cậu ta chết rồi,
còn sống mà cậu không trở lại tìm hỏi xem mẹ con mình sống chết ra sao. Loại bạc
nghĩa ấy quên đi cho khỏi bận lòng. Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, cậu ấy đâu biết
đã cho mình thằng Xanh. Con gái khi đã trao thân cho ai thì nhớ người ấy suốt đời,
bởi họ làm chuyện đó vì tình yêu, coi đó như một sự dâng hiến, một sự trao gửi,
thậm chí chỉ là sự nhẹ dạ. Con trai thì khác, khi thoả mãn dục vọng họ dễ quên
đi tất cả. Cậu ấy là người đáng trách đáng giận hay là người đáng để phải cảm
ơn, nếu hôm ấy cậu ta liều lĩnh thế mà mình cương quyết chống cự thì làm gì có
được thằng Xanh. Cứ theo thông lệ mà lấy một anh cộng sản nòi, biết đâu lại
sinh ra một thằng vai u thịt bắp thì làm gì mình có ngày hôm nay !? Mà cũng tại
mình nữa, nếu ngay sau ngày giải phóng Huế, 2 mẹ con dắt nhau lên TP tìm cậu ta
biết đâu mọi sự đã đổi khác, xét cho cùng thì mình cũng có lỗi trong chuyện
này”.
Từ hôm bắt gặp hình ảnh
Đinh Bá Hải lên nhận danh hiệu Anh hùng lao động thời đổi mới, mấy ngày liền chị
Chuyên không ngủ được. Hình ảnh cậu ấy 38 năm trước đeo bám chị mọi lúc mọi
nơi, nếu cứ thế này có lẽ chị phát cuồng lên mất, rồi cuối cùng chị cũng nghĩ
ra được cách giải quyết xem ra chấp nhận được. Nghe nói bác Trần Lưu Chử, bác
Khánh Lửa, bác Huỳnh An, nguyên là cán bộ Trung đoàn của thời kỳ ấy bây giờ nghỉ
hưu tại Huế. Chị Chuyên quyết định tìm gặp bác Chử, là Trung đoàn trưởng trực
tiếp chỉ huy trận đánh xuống đồng bằng huyện nhà năm ấy. Khi hỏi đến cậu Hải ở
tiểu đội trinh sát tiểu đoàn 1 thì bác Chử giới thiệu đến gặp cậu Chín chủ
khách sạn Huy Hoàng 16 - Nguyễn Trường Tộ, Vừa nghe chị Chuyên đặt vấn đề, Chín
nói ngay :
- Chị tìm đúng địa chỉ rồi đấy, năm 2005 kỷ niệm
30 giải phóng thành phố nó có vào tham dự, nó là giám đốc công ty cấp nước của
tỉnh nên công việc nhiều, vào dự xong là về ngay chẳng có thời gian ở lại.
Chị Chuyên giãi bày hết mọi chuyện và có nguyện
vọng nhờ Chín cùng đi với mình tìm gặp Hải. Chín đồng ý và khi ra Vinh sẽ nhờ
Hanh đi cùng. Sau khi nghe kế hoạch, tôi bảo:
- Những thằng thời cơ chế thị trường này mà vừa
có miếng lại vừa có tiếng không phải là tay vừa đâu, nhỡ ra nó không nhận thì
khổ thân bà ấy. Nếu cậu con trai giống thằng Hải như tạc thì để cậu con trai đi
ra, những thằng như Hải nói với nó phải có tang chứng vật chứng mới hết đường
chối cãi. Lần gặp này cứ để chị Chuyên ở nhà, chúng ta bắt Hải vào gặp chị ấy.
Mặc dầu đang là Giám đốc
điều hành của một Công ty liên doanh Việt - Nhật nhưng nhận được điện của mẹ,
sau 3 ngày cậu con trai cùng Chín đã có mặt tại Vinh để đón tôi. Năm 2008 cậu
ta sở hữu chiếc xe trị giá 4,5 tỷ thì cũng chẳng khác gì Cường “đô la” đi xe 21
tỷ bây giờ. Có lẽ cậu con trai cũng ý thức được với một người nhiều tiền, to
quyền như ông ấy, phải thể hiện cho ông biết : “Tôi ra đây tìm ông không phải để
xin xỏ ông điều gì”.
Cũng nhờ chỉ số IQ của 2
người nên sinh ra được cậu con trai tài giỏi mà cũng rất hiếu nghĩa với mẹ.
Thương mẹ một mình tuổi già vất vả ốm đau bất thường, Xanh mấy lần đưa chị
Chuyên vào S ài Gòn sống
cùng nhưng dăm bữa nửa tháng chị lại đòi về quê :
- Ở lại làm vướng bận con.
Chẳng mấy khó khăn để 3 chúng tôi tìm được cơ
quan của Hải, Chín và tôi ngồi quán nước đối diện cổng công ty, tôi “nh
áy”:
- Cháu vào cứ thế, cứ thế …
Cháng trai gõ cửa.
- Mời vào.
Chàng trai từ tốn mở cửa và lễ
phép :
- Cháu xin chào Giám đốc.
Hải ngước mặt nhìn chàng trai muốn nói điều gì
đó nhưng miệng như có
ai khoá lại chẳng nói nên lời, mắt nhìn như không chớp.
Phải cố gắng lắm để hoàn thành vai diễn của mình
nhưng Xanh đã bắt đầu run khi nhìn thấy khuôn mặt ấy, khuôn mặt người cha mà
bao nhiêu năm Xanh nghĩ chẳng bao giờ có giây phút này.
Câu tiếp theo lẽ ra Xanh phải nói:
- Ông yên tâm đi, tôi đến đây không phải để xin
việc làm đâu.
Không đủ bình tĩnh để nhớ lời “đạo diễn”, Xanh
chạy đến ôm lấy Hải:
- Ba ! Con là con trai của ba đây ! Con ra đây để
tìm ba !
- Có thật vậy không con ?!
Chàng trai nói giọng Huế, lại giống mình một thời
nên Hải không thể chối
từ.
Hải ôm Xanh và vỗ nhẹ vào vai :
- Mẹ con đâu, sao mẹ không đi cùng con ?
- Mẹ chưa ra được, Con đi cùng bác Chín, bác
Hanh là người cùng đơn vị với ba.
Từ quán nước bên đường thấy
Hải cầm tay con chạy ra cổng, biết mọi chuyện đã suôn sẻ 2 chúng tôi tiến đến gặp
2 bố con:
- Trời đất ! Bác Chín ! Và đây là …
- Là Đinh Hữu Hanh ! Trinh sát Trung đoàn. Vào đợt
lính sinh viên !...
Ban đầu chúng tôi cứ ngỡ Hải là thằng gian hung.
Nhưng không. Hải vẫn giữ được bản chất anh lính chiến năm nào. Hải bàn giao
công việc cho phó Gíam đốc, sáng hôm sau cùng lên đường thăm lại “chiến trường xưa”, trên đường đi
mặc dầu có con trai ngồi bên nhưng Hải chẳng giấu diếm điều gì…
Trận đánh xuống đồng bằng
năm ấy, chị em ở Huyện Uỷ ngỡ như ngày giải phóng quê hương đến nơi. Chị Chuyên
chủ động tìm đến Ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 để đặt đề vấn đề này vấn đề kia, nhiều
hôm trời chạng vạng mới ra về, để bảo đảm an toàn cho chị, Ban Chỉ huy cho Hải
là trinh sát Tiểu đoàn tháp tùng chị về hậu cứ Huyện uỷ, được nửa chặng đường,
bất giác Hải tiến lên trước mặt chị quỳ xuống van xin, nhìn khuôn mặt Hải tím bầm
như mặt thằng uống rượu giai đoạn cuối :
- Em xin chị ! Chị chiều em lần này, nay mai
đánh xuống đồng bằng có chết tan thây em cũng cam lòng.
Cậu ta đã nói vậy, nhỡ mai kia cậu ấy chết chị sẽ
ân hận thật, vả lại nơi rừng xanh heo hút này nếu cố tình cự tuyệt biết đâu cậu
ấy làm liều, đến nước ấy tính mạng e cũng khó giữ nổi, thôi đành …
Chiến dịch đánh chiếm đồng
bằng thất bại, toàn Trung đoàn rút lên rừng. Một thời gian sau cơ quan Huyện Uỷ lan truyền tin chị
Chuyên có bầu, mà chị ấy có bầu thật. Thường vụ Huyện uỷ họp kiểm điểm. Có đại
diện cấp trên về dự, yêu cầu chị khai rõ mấy vấn đề, nhưng chị cương quyết từ
chối và đành chấp nhận hình thức kỷ luật : Cách chức Bí thư Huyện uỷ, khai trừ
ra khỏi Đảng và chuyển công tác xuống Trung đội du kích huyện. Sinh con ra được 2 tháng, chị bế
con trốn khỏi cứ về sống cùng bố mẹ tại quê. Để kỷ niệm những năm tháng gian khổ,
đói khát , hà khắc sống chui lủi trong rừng, chị đặt tên cậu con trai là Xanh -
Đinh Bá Xanh, cũng nhờ anh trai là thiếu tá sỹ quan QLVNCH nên những ngày chị
trở về đồng bằng quan chức địa phương chẳng ai dám gây khó dễ với chị, có điều
chị không gặp may như nhiều gia đình khác. Anh trai dốc toàn bộ tài sản gom góp
được sau bao năm cầm súng để trang trải cho việc vượt biên bằng đường biển với
chiếc thuyền nhỏ, đông người. Anh
ra đi không tới được miền đất hứa mà bỏ xác ngoài biển khơi, bù lại chị có thằng
Xanh nên cuộc sống vật chất cũng đầy đủ.
Còn Hải, sau khi Giải phóng Huế cậu làm đơn xin
xuất ngũ về ôn thi Đại học. Ra trường, đường công danh cứ thế mà lên đến chức Gíam
đốc Công ty Cấp nước tỉnh nhà. Với bản tính
thông minh, dám nghĩ, dám làm. Là một trong những doanh nhân được nhà nước
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời đổi mới. Trong buổi lễ tuyên dương công trạng ấy, chị
Chuyên đã nhận ra Đinh Bá Hải người liều lĩnh quì xin chị năm xưa. Nay con đã
tìm được cha, chị có chết cũng thấy yên lòng.
Trước lúc bài viết này lên trang, tôi điện báo
cho Hải, cậu ấy chậm rãi:
- Tôi biết sẽ có giây phút này, tôi vẫn thường
xuyên, hồi hộp chờ đợi từng kỳ anh đăng, chuyện của đại tá Trần Lưu Chử, của
trung tướng Trương Đình Thanh anh còn động đến, không sớm thì muộn chuyện của
tôi anh sẽ không bỏ qua, nhưng xin anh đừng đề tên thật của tôi, mặc dầu không
còn đương chức nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tế nhị mong anh lượng thứ.
- Mình sẽ nghe lời cậu, tên thật mình không tiết
lộ nhưng chuyện của cậu thì CCB của
Trung đoàn nhiều người biết, nhưng họ biết cũng chẳng sao đâu, thời nay không
ai coi chuyện ấy nặng nề như cậu nghĩ, nếu điều tra lại có khi họ truy tặng danh hiệu anh hùng
LLVT thời chống Mỹ cho cậu đấy. Tuy hơn cậu chỉ 6 tuổi nhưng chị ấy là Bí thư Huyện
uỷ, lòng can đảm của cậu còn gấp mấy lần dũng sỹ diệt Mỹ. Hơn nữa trong hoàn cảnh ấy
mà làm được chuyện đó mới thực CON NGƯỜI cậu ạ.
Cả hai đứa chúng tôi cùng cười vang trên máy điện
thoại .
Chuyện tình của Trung đoàn
6 nếu viết hết sẽ có cuốn sách dày độ vài trăm trang. Chuyện không những xẩy ra
sau ngày về đồng bằng được gần dân, mà ngay khi còn ở trên căn cứ trong rừng sâu,
khi còn trên bom dưới đạn, khi còn khó khăn thiếu thốn mọi bề. Thiếu đến mức mà
Chính uỷ Trung đoàn xuống bệnh xá thăm hỏi thương binh chỉ biếu cho mỗi người một
thìa cà phê muối trắng, có anh gói vào giấy bạc của bao thuốc lá rồi để dành mỗi
ngày nhâm nhi vài hạt và cũng chỉ được dăm ngày là hết. Trong hoàn cảnh ấy Trưởng
phòng hậu cần lấy đó như một con bài câu nhử mấy cô gái non tơ từ đồng bằng lên
rừng theo cách mạng. Ai là cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn đều thuộc câu hát chế
từ bài hát truyền thống; “Anh Sản ơi nâng đít em lên…” (đất Ba lòng nâng bước
ta đi…). Chả là ông ấy có nhiều thứ để tặng chị em. Khi thì cân lương khô, khi
vài phong đường ép, thịt băm vụn hộp… Và không ít người trả ơn bằng những hiến
dâng…Nhiều người bắt gặp cảnh ông ấy hành sự mọi lúc mọi nơi, có lần ngay trên bờ khe chỗ có nhiều
sỏi đá, có cô gái không chịu được nên kêu lên như thế. Cũng trong cảnh đói khát
ấy, một anh quản lý bếp ăn Đại đội đã mồi chài được cô du kích Huyện đội Phú Lộc
mà hậu quả để lại là 37 năm sau khi nghe chúng tôi thông báo buộc phải vào nhận
con khi trên vai mang lon đại tá.
“ Anh Sản ơi ! Nếu anh đọc được chuyện này mong
anh đừng nghĩ rằng em nói xấu anh, đó là đời thường, anh cán bộ nào ở vào vị
trí của anh cũng hành xử như anh cả thôi, có điều khéo khen cho anh khi hết chiến
tranh chẳng thấy cô nào mang con đi tìm anh”
Kể lại những chuyện này
không phải để mua vui độc giả mà tôi muốn nói một điều rằng : Cái chuyện ấy,
chuyện đàn ông, đàn bà là chuyện muôn thưởlà bản năng mà tạo hóa sinh ra. Không
một thế lực nào có thể cấm đoán ngăn cản. Khi có điều kiện là sinh sôi khi có
cơ hội là chớp lấy. Ai cố tình cấm đoán là người đi ngược lại qui luật nhân
sinh. Thực tế như mọi người đã biết: Cái chết của Kết, của Giáp, của Huyền…là
những cái chết không đáng có. Đó là hậu quả của thói đố kị ích kỷ và hẹp hòi, của
một tư duy sai trái, phản khoa học đã kéo dài bao năm tháng.
Cứ ngỡ hết bom đạn là hết chết chóc đau thương,
nào ngờ lại thêm những cái chết oan nghiệt từ thói đố kỵ và lối tư duy sai trái
ấy.
Tại buổi lễ kỷ niệm 40 năm
giải phòng Huế, vị Đại tá Chính uỷ Sư đoàn 325 ôn lại diễn biễn của những ngày
lịch sử trong đó có đoạn đơn vị ông đã kéo cờ lên cột cờ Phu Văn Lâu vào lúc 10
giờ ngày 25/3/1975. Nghe thế nên cậu Chín nguyên Trợ lý Quân lực ghé vào tai
ông Huỳnh An:
- Nó bảo đơn vị nó vào Huế và cắm cờ vào ngày
25/3 Thủ trưởng kìa, thủ trưởng phải có ý kiến gì đi chứ.
- Kệ mẹ nó. Muốn nói trời nói đất chi mặc nó,
trong sử sách cũng đã ghi rõ : Trung đoàn Phú Xuân cắm cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu
và giải phóng Huế Vào 6h30 phút ngày 26/3 năm 1975, nó nói gió bay đi ai nghe
nó lúc này.
Trước biển người rợp bóng
cờ hoa của ngày lễ, ngồi bên đồng đội tôi nhớ đến ngày ấy năm xưa: Đúng ngày 27/3, sau
thời điểm vào Huế một ngày khi đang lúi húi chuẩn bị bữa cơm trưa cho Trung
đoàn trưởng, nghe tiếng lao xao ngoài cổng một lúc sau thấy cậu Vệ binh chạy
vào báo:
- Có mấy người xin vào gặp
E trưởng, tôi vội chạy lên gác báo cho anh Thanh, anh ấy yêu cầu tôi xuống hỏi
xem họ gặp có nguyện vọng gì, sau khi biết lý do tôi chạy lên báo cáo lại, anh ấy
từ tốn :
- Em xuống mời họ vào phòng khách .
Tôi biết mọi người đang rất
bức xúc điều gì đó nên tươi cười pha trà, lấy thuốc, bánh kẹo mời họ. Trái lại
mặt anh nào cũng đằng đằng sát khí . Anh Thanh xuất hiện nhìn lướt qua một lượt
những vật phẩm bày trên bàn tỏ ý hài lòng:
- Mời các đồng chí ăn kẹo, uống nước…
Một người nói cắt ngang :
- Chúng tôi đến đây không phải để ăn kẹo.
- Thế có việc gì các đồng chí cứ nói.
- Đề nghị ông trả lại công trạng cho đơn vị tôi.
- Đồng chí có thể nói rõ hơn.
- Khoảng gần 9 giờ sáng 25/3 chúng tôi đã vào Huế,
trong khi đó các ông còn ở trên rừng, sáng 26 mới vào đến nơi. Các ông hạ lá cờ
cuả chúng tôi xuống, kéo cờ của các ông lên rồi ngang nhiên tuyên bố đơn vị các
ông giải phóng Huế, sao các ông có thể làm trò nẫng tay trên như thế được ?
Anh Thanh vẫn bình tĩnh và
vui vẻ giải thích:
- Các đồng chí ăn kẹo, hút thuốc đi. Điều đó đơn
giản thôi mà, chắc các đồng chí phóng viên không theo kịp diễn biến của cuộc
chiến nên đưa tin như vậy. Ngày mai tôi báo lên Quân khu để điều chỉnh lại.
- Nói như ông thì nghe được còn nói như mấy thằng
lính của ông chốt trên cầu An Hoà thì ai chấp nhận. Thôi ! Ta mang thằng Ái về
chôn, bên ta chết một bên ông ấy chết một coi như hoà.
Tôi theo chân mấy anh lính
ra xe, trên ghế sau chiếc xe Jeep là một người lính mặc quần áo Tô châu đầu quấn
băng trắng máu vẫn còn vương đầy mặt. Trong buổi chiều giao ban hôm ấy được biết:
Đó là một trong 2 người lính của 2 đơn vị tranh cãi nhau ngày giờ và đơn vị cắm
cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu, bất hoà nên dẫn đến nổ súng bắn nhau. Hậu quả là mỗi
bên một người tử vong.
Ngày hôm sau số người nhận là đã cắm cờ ngày
25/3 không thấy xuất hiện trên địa bàn TP Huế. Ngày giải phóng Huế được ghi nhận
: 26/3/1975. Năm 2005 tại buổi gặp
mặt CCB QK Trị Thiên Huế tổ chức tại hội trường QK4, tôi nhắc lại chuyện này và
đề nghị trả lại sự thật cho lịch sử bởi không nên kéo dài chiến tranh thêm một
ngày, thế nhưng sự việc vẫn chìm vào năm tháng.
Sự việc hạ lá cờ nửa đỏ nửa xanh trên đỉnh Phu
Văn Lâu xuống và kéo lá cờ của Trung đoàn 6 mang từ rừng xanh lên là có thật với
lý do: Lá cờ kia nhỏ hơn lá cờ của E6 và được kéo lên lúc 6h30 phút sáng 26/3
khi đó phóng viên chưa có mặt. 10h sáng hôm đó số anh em tham gia kéo cờ được
ăn mặc chỉnh tề hạ lá cờ ấy xuống rồi lại kéo lên để quay phim chụp ảnh. Ngay
sau đó các phương tiện truyền thông củaTrung ương và địa phương đều đưa tin
theo sự kiện đó.
Sau khi sự việc xẩy ra một số dư luận cho rằng:
Việc lấy ngày 26/3 và đơn vị cắm cờ là Trung đoàn 6 là ý đồ của cấp trên nhằm tạo
dựng thành tích cho Trung đoàn trưởng để xét phong tặng danh hiệu AHLLVT cho
anh bởi anh ấy là con rể của tư lệnh QK Trị Thiên Huế. Tôi nghĩ đó là một suy
luận vô căn cứ vì sau đó không lâu, đầu năm 1976 anh ấy được điều đi khỏi Trung
đoàn để học văn hoá và chẳng ai đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng cho cá
nhân anh, tập thể Trung đoàn cũng không được phong tặng danh hiệu Anh hùng lần
thứ 2.
Giá mà khi ấy các cán bộ quan chức và các phóng viên có trách nhiệm hơn
để đưa tin đúng sự thật thì đâu mất thêm 2 người lính vào sáng 27/3. Những cái
chết thật oan nghiệt.
Gần đây một số CCB cung cấp thông tin: Đơn vị cắm
cờ trên Phu Văn Lâu ngày 25/3/75 là người của E 101 thuộc Sư đoàn 325 và ngay
sau đó đơn vị này nhận lệnh theo đường QL1 tiến quân vào đánh chiếm Đà Nẵng. Đơn
vị nào và ai là người kéo cờ đầu tiên lên đỉnh Phu Văn Lâu có thể cần một cuộc
sưu tra của CCB các đơn vị từng tham gia mặt trận Thừa Thiên Huế tháng 3/1975
Tiếp quản
thành phố với bao bộn bề công việc. Nào là giúp Ban quân quản giữ gìn an ninh
trật tự xã hội,
giúp dân ổn định cuộc sống, đào mương làm thuỷ lợi , khai phá ruộng đồng. Một
công việc không kém phần quan trọng và nguy hiểm là trở lại hậu cứ trên rừng
xanh thu gom nhiều thứ còn bỏ lại nhất là vũ khí trang thiết bị. Là người lính
thời ấy ai cũng thuộc những câu khẩu hiệu được viết ở mọi nơi; “ Súng là vợ - Đạn là con”, “ Yêu
xe như con - Quý xăng như máu”. Mà đúng
thế thật. Đường Trường sơn quanh co đèo
dốc, bom đạn. Mười chiếc xe ra đi may ra
chỉ một chiếc tới đích. Mỗi cân gạo, mỗi viên đạn tới được tay chúng tôi phải đổi
bằng máu xương của các chiến sĩ lái xe, của lính công binh và của chị em TNXP.
Mỗi lít xăng có thể phải đổi bằng cả lít máu. Còn bao nhiêu súng đạn, lương thực
thực phẩm, thuốc me, quân nhu bỏ lại
trên rừng sao đành, hơn nữa chiến tranh đâu đã kết thúc.
Những đoàn quân áo xanh mũ tai
bèo lại ngược nguồn trở lại nơi bếp Hoàng Cầm vẫn còn hơi ấm. Bao hiểm nguy
đang rình rập những người lính chúng tôi…
Tôi nhận được điện của cậu Chín:
- Khi đi vào nếu xe còn chỗ thì đón chị Mến, mời
chị vào dự cho cho khây khoả. Năm nay kỉ niệm 40 năm làm to lắm, Ban tổ chức đã
mời tất cả CCB trên cả nước về dự.
Trong những lần đi tìm hài cốt đồng đội t ôi cũng đã vài lần
ghé thăm chị ấy. Gọi chị bởi chị ta là vợ anh Tráng - Trưởng ban tác chiến Trung
đoàn, người được giao nhiệm vụ trưởng đoàn trở lại rừng thu dọn chiến trường
hơn 40 năm về trước, chứ thực ra còn kém tôi vài tuổi. Không ai tin chị mới hơn
60 tuổi, dáng người nhỏ thó, mái tóc như Bạch Mao nữ. Chỉ một mình chị nên căn
nhà tình nghĩa họ làm cho chị cũng thật khiêm tốn. Biết là đồng đội của chồng
nhưng chẳng mấy khi gặp chị cười, lúc nào cũng nơm nớp như sợ ai bắt mất hồn.
Anh em chúng tôi cạn lời khuyên giải, nể tình lắm chị mới nhận lời đi cùng.
Trên đường vào Huế để xoá đi bầu không
khí trầm lắng, tôi bắt chuyện:
- Sao ngày ấy chị còn trẻ thế mà không đi lấy chồng,
nhất là khi biết anh ấy đã không để lại cho chị một đứa con ?
- Lấy ai được nữa anh !? Khi hình ảnh anh ấy cứ
đeo bám tôi suốt đời như vậy ?
Như để xua đi nỗi đắng cay của cuộc đời, v ới giọng đều đều chị kể
như cho chính mình:
“ Em và anh Tráng cùng thôn, không biết ai mách
bảo mà về phép đươc một ngày thấy anh đến nhà em chơi, đến ngày thứ 3 thì anh ấy
hỏi: Nếu anh hỏi Mến làm vợ Mến có ưng không ? Em cũng chẳng phải vừa, trả lời
luôn : Lấy thì lấy sợ gì.
Hai ngày sau thấy anh đưa người nhà cùng lễ vật
đến nhà em đặt vấn đề, bố mẹ em thì khỏi phải nói, mừng như vớ được vàng. Các
anh lạ gì thời ấy, người ta hay nói : “Nhất chân chì , nhì 4 túi” , anh ấy vừa
được cả nhất lẫn nhì. Thực lòng em cũng
ưng lắm bởi ảnh vừa đẹp trai khoẻ mạnh lại hiền từ. Đám cưới gọn nhẹ nhưng mà
vui. Cả làng ai cũng mừng cho vợ chồng em, cưới xong ở với nhau được một tuần
thì anh ấy đi, nào ngờ…”
- Sau khi anh Tráng bị như thế chị và gia đình
làm sao biết nhanh v ậy ? Cậu Tân hỏi.
- Cách nhau mấy chục cây số dân đi chợ Đông Ba về
họ kháo nhau. Nghe chuyện như có linh tính mách bảo hơn nữa họ nói người ấy ở Gio Linh lại vừa về cưới vợ. Đích thị là nhà em, ai vào
đó nữa!?
Tiếp quản thành phố Huế, cách nhà sáu bảy chục
cây số, thật chẳng có dịp nào thuận lợi hơn. Thượng uý Nguyễn Văn Tráng, Trưởng
ban tác chiến Trung đoàn xin được nghỉ phép thăm nhà, dù hoạt động trên địa bàn
quê hương nhưng đã 7 năm trời chưa có dịp về thăm cha mẹ, khi Tráng đề xuất
nguyện vọng chẳng ai nỡ chối từ… Trả phép, Tráng mừng như thể được thăng quân
hàm đại uý, rồi anh cũng tổ chức bữa liên hoan nho nhỏ mời anh em các phòng
ban.
Như để thử thách ý chí của anh sau khi có vợ,
người ta giao cho anh nhiệm vụ mới, anh vui vẻ lên đường. Có thể trời hoà bình
đã làm anh mất cảnh giác. Nam Đông - Khe Tre là nơi khí hậu khắc nghiệt, mưa nắng
bất thường. Anh cho anh em mắc võng dọc
2 bờ khe ngủ cho thoáng mát. Trời đổ mưa, lũ về như xối, mọi người quờ quạng
trong đêm r ồi cuối cùng 3 người mất tích. Hai người lính được bà con dân tộc tìm thấy
nơi thượng nguồn, riêng Tráng 4 ngày sau nổi lên hạ lưu sông Hương. Thi thể
trương phình. Không chiếc quan nào v ừa nên lại
đành bỏ anh vào bao tử sỹ như những đồng đội trước đây.
Vào dự đám tang chồng. Hình ảnh anh được bó
trong chiếc bao tử sỹ ấy ám ảnh chị không khi nào dứt ra được. Người chỉ được làm chồng chị vẻn vẹn có 7 ngày nhưng đã để chị mang nặng nỗi đau đơn côi suốt cả một đời./.
Nhận được
thông báo của đồng chí vệ binh, mừng không có gì tả nổi, mừng bởi 2 lý do: Thứ
nhất: Kế sách của mình đã thành công, buộc cô ấy phải sang thăm tôi trước, lý
do thứ 2: Được gặp lại nhau sau hơn 3 năm xa cách.
Báo qua với người phụ trách rồi chạy như bay về
nhà tắm giội qua loa chủ yếu cho trôi hết cát bám dính trên người, về phòng
khoác bộ quần áo học viên chạy qua bãi tập nhờ Dương Danh Quý báo 1 suất cơm
khách, chạy ra gần tới cổng làm ra vẻ bình tĩnh bước đi khoan thai. Cách cổng
dăm mét, một cô gái đứng bên chiếc xe đạp Phượng hoàng xích hộp chăm chú theo
dõi tôi. Không thể là cô ấy, 3 năm dẫu có thay đổi đến bao nhiêu cũng không thể
là cô gái đang đứng bên chiếc xe kia.Tuy nhiên chiếc xe chắc là của cô ấy. Mẹ
là người Việt gốc Hoa nên bà có ý thức làm kinh tế từ rất sớm, sau hoà bình lập
lại một số nhà có tiền chạy mua ruộng đất của một số bần cố nông đem bán, riêng bà tích góp được bao nhiêu lại mua vàng,
với triết lý của bà : “Nhà nước họ cho mình được thì họ cũng có thể lấy lại của
mình, chi bằng mua vàng cất cho chắc ăn”. Là gia đình khá giả nhất làng nên ông
bà đã mua cho cô ấy chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp để mang ra trường ngay từ
năm học thứ nhất.(cuối năm 1973)
Đang định hỏi đồng chí vệ binh cậu
ấy đã nhanh miệng giới thiệu:
- Người nhà của đồng chí đấy !
Một luồng ớn lạnh chạy dọc s ống lưng . Nhưng rồi cũng kịp bình tĩnh lại “Có
thể sợ điều gì bất trắc nên rủ thêm cô bạn cùng đi, chắc Hoà đang trốn đâu đó để
làm tôi bất ngờ ! Đang nghĩ miên man thì cô gái cất tiếng hỏi:
- Anh có phải là anh Hanh không ạ ?
- Em là…
Cô ấy tiếp lời:
- Em là Giá, người Yên Thành, bạn của Hoà, Hoà
đau và đang nằm viện nên không sang gặp anh được, nó nhờ em sang báo cho anh biết,
nó muốn gặp anh, nếu có thể thì bây giờ anh theo em cùng sang trường thăm nó. Đồng
thời ngày mai anh mang chiếc xe này về để ngày nghỉ sang với nó, để bên ấy chẳng
mấy khi đi, lãng phí.
Tôi vẫn chưa tin đó là những lời nói thật.
- Thôi, đừng đùa anh nữa mà tội nghiệp, Hoà trốn
đâu thì bảo nó ra đi.
- Em không đùa đâu ! Nếu anh ngại chi đó mà
không đi được thì để em quay về, từ đây về trường em cũng phải mất tiếng rưỡi đấy.
Đồng chí vệ binh nói chen ngang:
- Có thể chị ấy nói đúng đấy anh ạ. Từ nãy đến
giờ chỉ thấy một mình chị ấy.
Sau khi biết
Giá không đùa, tôi lại chạy như bay về doanh trại, nói sơ qua với Nguyễn Hồng
Sơn lớp trưởng và quyết định đi cùng Giá, rất may Sơn là tay đã có vợ có con
nên ăn ở biết điều:
- Thế thì đi đi, nhớ 21h tối mai có mặt. Nếu nó
khoẻ rồi thì chở luôn về đây cho bọn tao nhìn mặt.
Anh em trong lớp chưng hửng, cứ ngỡ là được gặp
cô ấy, tuy chưa gặp mặt nhưng ai cũng ngưỡng mộ tình cảm của Hoà dành cho tôi bởi
trước đó Dương Danh Quý đã quảng cáo hết lời .
Dọc đường Giá cho tôi biết:
- Thỉnh thoảng nó cũng có đau, nhưng hễ đau là
ra trạm xá của trường khám lấy thuốc về uống vài hôm là khỏi, sau khi giải
phóng hơn tháng trời không nhận được thư anh, nó xuống nước ghê gớm, lần này 2
đầu gối nó sưng lên. Trạm xá giới thiệu đi viện tỉnh nhưng nó sợ đi như thế
không ai chép bài cho nên vẫn nằm điều trị tại trạm xá nhà trường…
Nghe Giá tâm sự mà ngỡ như cô ấy đang kể tội
mình. Có thể việc làm nông nổi của tôi đã làm cho sức khoẻ của Hoà sa sút và là
cơ hội cho căn bệnh tai quái kia tái phát. Tôi thấy mình có lỗi thật sự.
Chuyện cô ấy bị đau khớp đã được nói trong vài bức
thư, nhưng nghĩ cô ấy nói vậy nhằm thử lòng tôi, nào ngờ bệnh tình lại trầm trọng
như vậy.
Về tới trường, t
ôi lao th ẳng xe ra trạm xá. Giá dẫn tôi vào phòng:
- Dậy đi này. Tao dẫn giải “thủ phạm” về đây này.
Cô ấy không mảy may phản xạ trước câu đùa vui rất
đúng lúc ấy, vẫn nằm yên giả vờ ngủ, bởi trước đó vẫn nghe tiếng các bạn đến
thăm chuyện trò râm ran. Mọi người biết ý đi ra ngoài, trong phòng chỉ còn tôi,
Giá , Giá nói nhỏ vào tai: Anh Hanh sang đây ngồi này.
Hoà vẫn nằm yên, tôi nhẹ nhàng kéo ống quần lên
quá gối. Đúng thật, hai đầu gối sưng đỏ, tôi nhẹ nhàng xoa tay đều đều…Bỗng Hoà
vùng dậy ôm chầm lấy tôi và khóc như thể nhận được tin tôi tử trận:
- Sao trời đối xử nghiệt ngã với em như vậy anh
ơi. Khớp đớp tim, rồi đây em bị thêm bệnh tim nữa thì làm sao mà sinh con được
anh ơi.
Cô ấy khóc như thể cả khu trạm xá này chỉ có hai
người.
Tôi ôm Hoà vào lòng dỗ dành:
- Thôi đừng khóc nữa. Nếu nó đớp tim em thì còn
có tim anh, nếu không sinh được thì chúng mình xin đứa con nuôi.
Nghe thế cô ấy bất ngờ đẩy tôi ngã đầu va vào
thành giường:
- Lúc nào cũng đùa được. Cút đi .
- Cút thì cút !
Tôi đi ra:
- Mời các anh các chị vào phòng đi, bọn tôi hết
giận nhau rồi.
Mặc cho nhiều người nói chen nhau nhưng tôi vẫn nghe
được một câu rất rõ:
- Lính có khác, tự nhiên như ruồi.
Chuyện lại râm ran, Chị Hường bác sĩ trạm trưởng
thấy ồn ào chạy sang, sau khi biết chuyện, chị ấy góp vui:
- Nhất Hoà rồi đấy, có người yêu từ chiến trường
trở về, lo mà điều trị cho chóng khỏi, lính chiến trở về đừng lo chuyện không
có con...
Sáng hôm sau
tôi lấy xe đạp trở về trường gặp Hoàng Xuân Quang cùng tiểu đội, nhờ cậu ấy dẫn
lên Thái Nguyên tìm gặp thầy lang người dân tộc Sán dìu, chữa bệnh khớp rất hiệu
quả. Hai người chở nhau vượt qua chặng đường trên 50 km. 3h chiều chúng tôi tới
nơi. Thoạt nhìn, tôi nghĩ ông không thể là người có tài chữa bệnh như cậu Quang
đã kể. Trong túp lều sơ sài là một bà già đang quờ quạng trên những mẹt cành
cây rừng băm nhỏ, nhìn quanh chẳng có chi đáng giá. Sau khi nghe tôi trình bày
bà nhẹ nhàng:
- Không phải lấy nhiều như thế đâu, thuốc của ta
nếu đúng bệnh thì chỉ cần một thang là khỏi,nếu bệnh nặng lắm thì tao cũng cho
3 thang thôi, nể tình mày ở Nghệ an ra, tao cho mày 3 thang, mỗi thang uống 3
ngày, đổ vào 8 bát nước, đun sôi 20 phút uống thay nước chè hàng ngày, uống hết,
đổ nước vào đun lên cứ thế mà uống.
Khi thanh toán tiền, tôi lại càng ít hy vọng vào
3 thang thuốc ấy. Rẻ như cho, tiền 3 thang thuốc chưa đủ mua 2 kg gạo. Tôi gửi
thêm tiền nhưng bà nhất quyết không nhận :
- Tao nhận thì tao giàu to lắm rồi.
Hai người lại quay trở về, tới trường khoảng hơn 8h đêm. Vừa tới
cổng trường tôi nói Quang:
- Cậu vào nói với Sơn như thế nào thì tuỳ, bây
giờ tao sang bên ấy
luôn, có khi vài ngày sau, có thể vài tuần sau, cũng có thể khi nào “cái Hoà”
khoẻ tao mới về. Gặp được cô ấy rồi, tao cũng đang mong chúng nó kỷ luật để về
lại trường Vinh.
Thật kì lạ, sau khi dùng hết 3 thang thuốc ấy,
căn bệnh viêm khớp gối của Hoà mãi đến năm 2005 mới tái phát lại. Tôi lại tìm
ra nhà Quang để nhờ cậu ấy một lần nữa. Quang buồn
rầu kể:
- Một năm sau khi lấy thuốc cho “cái Hoà” thì bà
ấy mất, bà không có ai thân thích nên cũng chẳng truyền lại cho ai, bài thuốc
quý thất truyền
Về nhà kể chuyện cho Hoà nghe, tôi đùa:
- Bà lang này cũng chẳng khác chi thầy lang đã
chữa khỏi bệnh cho HCT năm nào, chữa xong bệnh là biến mất khỏi trần gian.
Sau lần thử thách nghiệt ngã ấy tình yêu của
chúng tôi càng bền chặt hơn. Học được một năm thì hệ đào tào cán bộ chính trị
dài hạn chuyển qua Bắc Ninh thành lập trường SQCT. Lại càng thuận lợi , bởi 2
trường cách nhau chỉ 12km đường nhựa. Có lần để thử sức tôi đạp chỉ hết 45
phút.
Phòng ở của Hoà gồm 12 nữ sinh viên, ai cũng háo
hức muốn gặp tôi, bởi ai cũng đã được đọc thư tôi viết cho cô ấy, ai cũng có cảm
tình với tôi vì họ cho rằng: Mặc dù ở chiến trường xa xôi nhưng biết quan tâm đến
người yêu bằng một nghĩa cử thiết thực mà chưa thấy người lính chiến nào làm được.
Chả là cuối năm 1974 nhân dịp anh Kỷ- Ban quân y, quê thị xã Bắc Giang về phép
tôi đã nhờ anh ấy mang về gửi tặng Hoà chiếc Radio hiệu Sony nhờ du kích mua từ
đồng bằng. Với lời đề tặng: “Mười giờ đêm, em hãy mở chương trình Đọc chuyện
đêm khuya cho cả nhà nghe, biết đâu được gặp anh trong đó”.
Trong một lần lên thăm Hoà, sau khi cơm nước
xong, Cô Bích (mọi người hay gọi Bích Tồ) nói với cô Chín:
- Mày sang phòng nam mượn cây ghi ta về đây, yêu
cầu anh Hanh đàn hát cho mọi người nghe, cái Hoà nó bảo anh vừa hát vừa đàn
ghita hay lắm.
Rồi
Chín mang đàn về thật, tôi đứng
trước tình huống khó xử: Nếu từ chối mọi người lại nghĩ Hoà tô hồng người yêu
quá đáng, nếu hát có người lại nghĩ: Tay kia khoe mẽ.
Tôi đưa mắt nhìn Hoà ngầm xin chỉ thị:
- Hát cho em nghe răng thì hát cho mọi người
nghe rứa.
Tôi chẳng nói chẳng rằng, khi ngón tay vừa lướt
nhẹ trên 6 sợi dây buông Mì- là- rê- son- xi- mí . cả căn phòng lặng phắc. Tiếng
đàn quyện cùng lời ca tôi vẫn hát suông trên đường hành quân khi đi vào chiến
dịch : “Con biết bây giờ mẹ chờ em
trông…”, tôi biết làm cho lời bài hát nuột nà và não nề thêm. Mặc dầu mắt lim
dim nhưng vẫn cảm nhận được dăm ba người đã sụt sùi, có thể nói lần đầu tiên
các cô ấy được nghe một bài như vậy, lại là tiếng hát của một người vừa bước ra
từ cuộc chiến. Các cô ấy khóc là phải thôi. Nhiều sinh viên nam thấy thế cũng ghé vào. Giọng một cô gái nghe rất
rõ:
- Mấy chàng trai lớp ta nhìn cái Hoà nuốt nước bọt
là phải thôi.
Rồi cứ thế, “Bữa thì em tới, bữa anh sang”. Chủ
nhật nào tôi không bận đi Hà nội học thêm nhạc lý và học vẽ truyền thần là hai
chúng tôi lại được gặp nhau. Cũng nhiều hôm Hoà nghỉ tại nhà khách qua đêm, gần
sáng tôi vẫn lén ra ngủ cùng cô ấy, nàng động viên:
- “Con Cú vọ” của em đã vượt qua được một lần,
thôi hãy chịu khó vượt qua lần này nữa đi, nếu không em có thai thì làm sao ra
trường đúng kỳ hạn được.
Hơn nữa ngày ấy đâu đã biết nhiều biện pháp
tránh thai như bây giờ, nhỡ có thai trước lúc cưới sẽ mất uy trước bè bạn và chúng
tôi đã kìm chế được
lòng mình.
Niềm vui đến với
tôi thật bất ngờ, cuối năm học thứ
tư cô ấy đề nghị:
- Tết này về tổ chức cưới thôi anh ạ, nếu em
chưa có chồng, nhà trường điều em đi qui hoạch các tỉnh Miền Nam mất. Chiến
tranh đã khiến hai đ
ứa m ình ở hai đ ầu xa th ẳm, nay
hoà bình lại phải cách xa biết khi nào thành vợ chồng được.
Chả là năm ấy Bộ GD- ĐT có chủ trương cho sinh
viên năm thứ tư của trường đặc cách (không phải thi tốt nghiệp) để tăng cường
cán bộ cho các tỉnh phía Nam.
Khi đựơc biết dịp tết về cưới vợ, tiêu chuẩn tết của mọi học viên đều
nhường cho tôi: 6 tút thuốc lá Nhị Thanh, 5kg kẹo, 2kg chè Thái. Một đám cưới thật đầy đủ.Tối 27 tết mới về tới
nhà, nên hai gia đình chúng tôi quyết định tổ chức vào chiều mồng 2 tết Mậu Ngọ
(1978). Thế là sau 8 năm kể từ ngày
tôi viết lá thư đầu tiên tỏ tình cùng cô ấy chúng tôi chính thức được bên
nhau trọn vẹn. Mở đầu chương trình
văn nghệ, chú rể hát: “Đôi bồ câu đang bay về đâu…” một việc chưa có tiền lệ và
đến nay vẫn chưa thấy ai làm như thế. Sáng mồng 4 tết phải ra trường, trước lúc đi mẹ của Hoà bắt mang theo 2 con
bồ câu cùng lời dặn con gái:
- Mang ra bồi dữơng cho nó !
Tối mồng 4 tết có mặt tại nhà ông cậu, ông là cán bộ
phòng nghiên cứu của Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng đông, cậu tặng vợ
chồng t ôi chiếc ruột phích. Ra chợ
Đồng xuân mua chiếc vỏ tre đan lồng vào, Hoà hí hửng lắm. Cô ấy cứ đòi ôm vào
người cho an toàn song tôi cương quyết buộc dọc khung xe để 2 tay rảnh rang ôm
eo cho tình cảm. Ngày mới vào Huế thấy mấy cô nữ sinh ôm eo mấy chàng trai
thong dong trên cầu Tràng tiền trông thèm đến nao lòng. Điều sâu xa hơn là nếu
cô ấy có thai thì luôn được an toàn .Trưa mồng 5 tới trường . Tối hôm ấy để chứng
tỏ là người con gái biết thương chồng, ăn cơm xong mang bồ câu ra làm thịt, vừa
làm vừa hát trông thật đáng yêu, chú bồ câu non được nàng chặt ra từng miếng nhỏ,
bỏ vào Phích cùng ít gạo đổ nước sôi, đậy nắp, như vừa hoàn thành một việc trọng
đại. Khoảng 2 giờ sáng nàng đánh thức tôi dậy, tiếng nói thì thầm bởi phòng bên
của nhà khách cũng có người đang ngủ:
- Dậy ăn cháo !
Nhìn trên bàn chỉ một chiếc bát to, tôi quay
sang vợ:
- Ăn một mình anh không ăn đâu.
Nàng lại nói nhỏ vào tai tôi:
- Em ăn nó phí đi, cố gắng ăn hết rồi sinh cho
em một thằng cu.
Cháo được đổ ra. Trời đất ! Gạo còn nguyên hạt,
thịt bồ câu còn đỏ hỏn. Mở ra kiểm tra thì than ôi núm chân không của chiếc ruột
phích đã gãy tự lúc nào. Hai vợ chồng ôm nhau cười qu ên c ả gi ữa đêm có hàng xóm đang ngủ. Mấy người ngủ chung nhà khách chạy qua
xem chuyện gì xẩy ra. Tôi ngượng chín mặt, Hoà phải giải thích để mọi người khỏi
hiểu lầm. Một kỷ niệm không thể phai mờ của thời bao cấp. Viết xong đoạn này
tôi đọc cho Hoà nghe xem còn sót chi tiết gì để bổ sung, nghe xong Hoà lại ôm
tôi cười như khi đọc chuyện của Minh Lê:
- Ông nhớ dai như đỉa !
Hoà tính toán như thần, sau khi cưới cô ấy được
giữ lại học thêm một năm nữa để làm giảng viên của trường. Cậu con trai nằm
trong bụng mẹ đúng 9 tháng và ngày 26/10/78 ch úng t ôi
vui mừng đón cháu chào đời với cân nặng 3,6 kí. Sau khi sinh 10 ngày mẹ ch áu phải trùm khăn lên đầu vào phòng thi tốt nghiệp, 3 môn
thi: một 9, hai 8. Lúc này tôi đã ra trường được một tháng. Có hơn 3 năm ở chiến
trường nên tôi được ưu tiên không phải đi xa mà được về quân khu 4 - Sư đoàn 441 đóng trên địa bàn xã Phú
Lộc, Can lộc, Hà tĩnh. Hoà trả quyết định ở lại trường xin về Nghệ Tĩnh công
tác. Là gái một con lại là hoa khôi của trường nên nhanh chóng lọt vào mắt của
vài con yêu râu xanh, nếu chấp nhận đánh đổi là nàng sẽ được phân công một ví
trí ngon lành ở ngay TP Vinh. Nàng quyết định xin vào công tác tại Trường trung
cấp NN2 của tỉnh đóng trên địa bàn xã Thiên lộc cách nơi tôi đóng quân khoảng
15km. Về trường lại không tránh khỏi ánh mắt thèm thuồng của vài anh Đảng viên
được phân công “dìu dắt” nàng vào Đảng, nàng lại quyết định xin rút lại tập hồ
sơ đối tượng Đảng của trường ĐH.
Bởi nhiều áp lực
nên tôi có ý định kết thúc những trang “Ký ức một thời bi tráng” của mình bằng
một phần kết nho nhỏ. Nhưng nhiều người nguyên là chiến sỹ một thời dưới quyền
tôi, tại Trung tâm huấn luyện 441-QK4, được đưa sang chiến trường Campuchia
,may mắn trở về hiện đang sống trên địa bàn một số địa phương điện thoại hỏi:
- Thủ trưởng ơi ! Ngày còn làm lính, thủ trưởng
viết hay như thế, còn những ngày thủ trưởng ném bọn em sang làm bia thịt cho Pônpot
, thủ trưởng có định viết hay không ?
Nhận được những cú điện như vậy, lòng cảm thấy
mình chẳng khác chi kẻ phạm trọng tội, lẩn trốn mấy chục năm, nay đọc được lệnh
truy nã đặc biệt. Nếu không viết, có nghĩa là cố tình chối bỏ trách nhiệm, cố
tình quên đi một thời sôi động cũng chẳng khác chi chiến trường năm nào, thậm
chí sự hy sinh, mất mát của một lớp thanh niên trai tráng còn đau thương bội phần.
Những lời nhắc ấy như thức tỉnh lương tâm khiến tôi không thể dừng bút.
Tôi và Tân thỉnh
thoảng vẫn được Hội CCB Trung đoàn 6 ở nhiều địa phương mời dự các cuộc gặp mặt
nhân dịp này nọ. Nhiều CCB, chỉ vào mặt tôi mà rằng:
- Lính Trung đoàn ta chết nhiều một phần có bàn
tay của vợ mày đấy.
Tôi ngơ ngác chưa hiểu tại sao anh em lại kết tội
cô ấy như vậy !?
Cậu Tân phụ hoạ thêm:
- Đúng đấy ! Theo cách nói của Chế Lan Viên khi
ông ấy nhận trách nhiệm về cái chết của gần 2 ngàn cán bộ, chiến sỹ trong cuộc
tổng tiến công Mậu thân1968, khi Trung đoàn 6 đánh vào TP Huế, đại ý là : “ Hai
ngàn người ra đi- Ba mươi người sống sót- Trách nhiệm thuộc về ai ?- Trách nhiệm
thuộc về tôi- Bởi những câu thơ tôi viết- Thúc giục họ lên đường”. Nếu hiểu
theo cách đó thì vợ mày có tội thật.
Nhiều đêm nằm
nghĩ lại, biết anh em đùa nhưng lại thấy như họ nói rất thật. Thư cô ấy gửi vào
mà lại rất đều đặn, cứ chờ đến thứ 7 là viết, mỗi tháng 4 thư, có tháng nhiều
hơn. Trung đoàn 6 là bộ đội trực thuộc tỉnh Thừa Thiên hoạt động quanh vùng Tây
Nam Huế, hòm thư không thay đổi nên hầu như chẳng thất lạc thư nào. Sau khi Chính
trị viên đại đội kiểm duyệt, những bức thư mang tính động viên khích lệ như vậy
người ta cho chuyền nhau đọc, có những bức thư đã nhoè nét chữ khi đến tay tôi.
Thư của nàng
như những liều thuốc bổ, liều thuốc kích hoạt thêm lòng dũng cảm của người
lính. Nhiều đêm nằm cùng bộ binh họ lại yêu cầu tôi mang thư cô ấy ra đọc, cũng
nhờ những bức thư ấy mà tôi trở thành người nổi tiếng khắp Trung đoàn, nổi tiếng
bởi có cô người yêu là sinh viên viết thư mùi mẫm, lời lẽ động viên không riêng
gì tôi mà bất cứ ai được đọc , được nghe đều có chung cảm nhận như khích lệ
chính mình. Có người coi như thư của người yêu họ vậy, cũng không ít người
tranh thủ lúc bình yên viết thư gửi cô ấy. Rất nhiều người sau đêm được đọc ,
được nghe, trận đánh tiếp theo họ đã mãi mãi không về. Nhiều CCB vẫn nói: Nếu
giữ được tất cả các bức thư ấy để bây giờ gửi cho nhà XB Quân đội, khi tác phẩm
được lưu hành chắc cũng tạo nên cơn sốt có khi còn hơn cả Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, hay Nguyễn Văn Thạc. Rất
không may khi vợ con còn tá túc trong dãy nhà tập thể của trường Nông lâm tỉnh,
cơn bão năm 1982 làm sập nhà, những tập thư được cô ấy cất giữ dầm mình trong
mưa bão đã nát vụn và không thể lưu giữ lại được.
Nhiều người ngạc nhiên về tấm lòng nhiệt huyết của
cô ấy được thể hiện qua những bức thư. Nhưng tôi thì không, nếu những năm tháng
đó không nghe lời tôi, có khi xương đã phơi trên những nẻo đường Trường sơn, hoặc
nếu có sống trở về chắc hộ khẩu bây giờ thuộc Làng Lòi - Yên thành, nơi dành
cho những nữ TNXP không chồng được quyền làm mẹ. Chả là thi vào ĐH- Y Hà nội
thiếu mất nửa điểm, mơ ước trở thành bác sỹ không thành nên quyết định đi TNXP
để được vào chiến trường cùng tôi, biết chuyện, tôi đã khuyên can và cũng thật
đúng lúc, giấy báo nhập học khoa quản lý kinh tế của trường ĐHNN gửi về thế là
tránh được một hậu hoạ khôn lường.
Có thể nói : Tình yêu của cô ấy đã quyết định sự
nghiệp của vợ chồng tôi.
Tiếp quản Huế được gần 3 tháng, Trung đoàn trưởng
Trương Đình Thanh nói với tôi:
- Có 2 suất đào tạo dài hạn cán bộ chính trị
quân đội, nếu em thích thì anh cho ra Bắc đi học.
Tôi và Dương Danh Quý (khoa văn) là 2 người được
chọn. Dù ngán đời quân ngũ như ngán “Cơm nếp choẹt” nhưng khi biết nơi ra nhập
học là thị trấn Nỉ - Đa Phúc gần Việt Yên - Hà Bắc nơi người yêu đang học thì
như mở cờ trong bụng. Trong khi số cán bộ , giảng viên, sinh viên của trường ĐH
Vinh sống sót chưa có chủ trương cho trở về trường, nên tôi bàn với Dương Danh
Quý cứ nhận lời đi học rồi tuỳ cơ ứng biến để tìm cách trở về trường Vinh. Cơ hội
được gặp người yêu sau hơn 3 năm xa cách sẽ thành hiện thực, Tôi không thể hình
dung cô ấy sẽ vui đến mức nào. Bởi tối 26/3/75 sau khi tham gia biểu diễn văn
nghệ chào mừng ngày thành lập đoàn TNCSHCM do Đoàn trường tổ chức là lúc cô ấy
nhận được tin: TP Huế đã được giải phóng .
Để thử thách lòng thuỷ chung của cô ấy, khi hay tin
quân ta đã giải phóng TP Huế được truyền đi là lúc tôi ngưng hẳn viết thư về như
muốn để cô ấy ngỡ như mình đã chết và chờ xem … Hơn một tháng sau anh Thái trưởng
ban trinh sát trung đoàn gặp tôi đặt bức thư của Viên Bạch Ngọc gửi cho anh ấy
trước mặt tôi và nói: - Đọc đi ! "Anh Thái kính mến ! Anh Hanh có mệnh hệ
gì thì anh cứ nói cho em biết, em sẽ chịu đựng được mà...".Vừa đọc xong ngẩng
mặt nhìn anh Thái, chưa kịp thanh minh, anh ấy hỏi:
- Mày định lấy cô gái em viên thiếu uý thật sao
?
- Làm gì có chuyện ấy !
- Sao cả tháng nay không viết thư cho nó.
- Em đùa một chút thôi !
- Sao có kiểu đùa nhẫn tâm như thế được !
Anh ấy bắt tôi ngồi viết thư cho H. để anh mang
đi gửi.
Chuyện được ra
Bắc tôi cũng không hề báo trước. Nhập học được một tuần tôi viết mấy dòng :
”Hoà mến ! Anh đã ra Bắc đi học, đang ở Nỉ, cách chỗ em mười cây số đường chim
bay. Nếu chủ nhật tuần sau không bận tăng gia thì anh sẽ cuốc bộ sang gặp em,
chỉ cần nhìn thấy em rồi quay về cũng được. Nhớ em phát điên lên rồi đây này !
Ra đây bận học và công việc tối ngày, ban đêm sinh hoạt, rồi thay nhau gác chẳng
có thời gian để viết thư dài đâu. Nhớ em nhiều lắm, tạm biệt !” . Thư không dài
lê thê kể hết chuyện đồng quang sang đồng rậm như những lá thư viết từ chiến
trường. Lá thư thật ngắn nhằm làm cho cô ấy lòng dạ nôn nao. Tuy nhiên nội dung
trong bức thư ấy là có thật. Là lính trinh sát chiến trường đi nắm địch thường
xuyên, ra khỏi hậu cứ là như hổ được thả về rừng, sống độc lập là chủ yếu, đằng
này ra đây học họ quản lý chặt chẽ đến nghiệt ngã chẳng khác chi con chó đực đến
tuổi trưởng thành bị xích nhốt. Nhiều người muốn đi Hà nội xem thủ đô như thế
nào, ai đi phải đăng ký từ thứ 6: Đi gặp ai ? Số nhà ? Phố nào ? Ai chưa có vợ
chỉ được đi trong ngày…Ra Bắc được hơn một tuần muốn sang gặp H. nhưng xe đạp
không có, đi ô tô thì phải xuống Cầu Chui vòng lên lại chỉ được đi trong ngày
nên đành bó tay.
Hơn 3 năm xa cách, để giữ Viên Bạch Ngọc luôn trong sáng và luôn thuộc về
mình đó là điều không đơn giản. Sống trong môi trường lắm chàng sinh viên đẹp
trai, học giỏi, con nhà khá giả, thậm chí cả những giảng viên chưa vợ, chắc chắn
sẽ không thiếu người theo đuổi cô ấy. Tuy có lợi thế về “Cường độ” nhưng lại
thiếu tiêu chí “Nhất cự ly” nên phải dùng “khổ nhục kế” để mong chiếm được lòng
thương và giữ được cô ấy cho đến ngày về. Hầu như thư nào gửi về cũng đều
khuyên “Anh xin em đừng yêu., đừng chờ đợi nữa, ngày anh về có khi mắt không
còn, chân mất một…Em có đủ can đảm để chăm sóc một thương binh nặng hay không ?
Thậm chí anh không còn khả năng để sinh cho em một mụn con nào” vv… Tóm lại tôi luôn vẽ ra một viễn cảnh chẳng sáng sủa gì. Bởi thế nên mở đầu các bức thư chỉ
đề: Hoà nhớ ! Hoà mến ! Thậm chí chỉ mỗi chữ Hoà ! Cuối cùng kế sách ấy đã
thành công.
Sau một tuần kể từ ngày viết bức thư " chiến
thuật" ấy. Chiều thứ 7 trong giờ tập nhảy cao đồng chí gác cổng chạy vào
báo tin:
- Đồng chí Hanh ra cổng gặp người nhà gặp.
Đó là chiều 21 tháng 8 năm 1975. Tôi hiểu rằng ở
đây tôi có ai là “người nhà” ngoài cô ấy.
Chồng sỹ quan
QĐ- Vợ giáo viên một trường chuyên nghiệp, 2 con trai sinh cách nhau 3 năm, đơn
vị đóng quân cách vợ con chỉ một giờ đi xe đạp. Những tưởng cuộc sống gia đình
bé nhỏ ấy từ đây sẽ xuôi chèo mát mái. Nào ngờ bao thử thách, bao cám giỗ, bao
khó khăn đang chờ phía trước.
Bốn người cùng lớp được phân về QK4, Trương
Quang Ân, được về quê nhận nhiệm vụ tại Trung tâm HL 442 Thanh hoá. Tôi , Phan
Ngọc Sơn và Nguyễn Văn Thành về Sư đoàn 441. Sơn và Thành được đưa xuống Tiểu
đoàn. Chẳng bao lâu sau trong một lần giám sát ném lựu đạn thật, cậu lính mới mất
bình tĩnh, ném chệch về hướng đài chỉ huy, rất may chỉ một mình Sơn bị mảnh lựu
đạn găm vào mắt. Hai mắt còn một, Sơn chuyển ngành. Một năm sau, Thành đập bệnh
và xin phục viên cho bằng được. Về sư đoàn 442 được một thời gian, Trương Quang
Ân cũng theo cách của Thành, cũng Phục viên. Sau này gặp lại, Thành tâm sự:
- Ở lại tao sợ chúng nó ném sang Campuchia hay
ra biên giới phía Bắc, chi bằng về cày ruộng , có khổ một chút nhưng chắc cái
gáo.
Ra thế ! Còn
tôi, do nét chữ chân phương nên Trưởng ban cán bộ giữ lại để viết danh sách
trích ngang của sỹ quan toàn sư đoàn. Sau 7 ngày mười bản danh sách tôi đã hoàn
thành. Cứ viết đi viết lại 10 lần như vậy và thuộc hết sơ yếu lý lịch của 625 sỹ
quan, thế là họ quyết định giữ tôi lại Ban cán bộ và giao nhiệm vụ: Trợ lý
chiêu sinh. Đồng thời khai thác triệt để “tủ hồ sơ sống“. Là người trẻ nhất
trong Ban nên ngoài công việc chuyên môn tôi chẳng khác chi một tay điếu đóm. Người
sai việc này, người nhờ việc nọ. Ông Thược trưởng ban, người Thạch tiến - Thạch
Hà, khó tính còn hơn cả mế chồng, lại không may gặp phải thời ông tướng Lê
Quang Hoà, bí thư kiêm tư lệnh QK với câu nói cửa miệng: “Sản xuất lấy lương thực
mà ăn, làm lấy nhà mà ở, trồng lấy thuốc mà chữa bệnh”, ông nói và ông làm thật:
Để lấy thành tích ông trả lại một phần tiêu chuẩn lương thực, thuốc men cho bộ QP,
bù lại ông giao cho các đơn vị tự đảm bảo bữa ăn được vài lưng cơm hoặc bobo độn
thêm sắn xào, nhưng từ chỉ huy đến lính ai cũng mong đến bữa. Có hôm tiểu đoàn
phó Đại (Cẩm Quang - Cẩm xuyên) đi kiểm tra gác đêm bắt được cậu Thọ lính tân
binh phá cửa nhà bếp vào trộm bobo ăn
cho đỡ đói. Anh ấy cho xúc một chậu nhôm đủ tiêu chuẩn 6 người ăn và bảo :
- Nếu mày ăn hết trong thời gian 25 phút tao sẽ tha cho.
Thọ bình thản ngồi ăn dưới sự chứng kiến của dăm
ba chục lính và cán bộ khung vây quanh, sau gần 20 phút Thọ đứng dậy vỗ bụng;
- Em xin phép thủ trưởng về đi ngủ .
Sợ chết vì bội thực nên Đại cho lính đưa xuống
khe ngâm nước.
Hầu như chủ nhật nào cũng phải cuốc đất đồi trồng
sắn, ở cách vợ con 15km nhưng 2 tháng mới được về một lần. Rất may trong ban có anh Tân phó
ban là người Nam Cát - cùng quê, tôi viện lý do:
- Cứ để em trên này thì làm sao có trần mà thăng
quân hàm cho em được ?
Sau nhiều lần đề nghị, cuối cùng nguyện vọng của
tôi cũng được chấp nhận. Những tưởng về đơn vị là môi trường để phát huy năng lực,
nào ngờ một thời gian sau khẩu súng ngắn được trang bị không cánh mà bay. Mất sung,
lĩnh 2,3 năm tù là điều khó tránh khỏi. Lúc này bản lĩnh của người trinh sát
chiến trường được phát huy. Tôi đem chuyện thổ lộ cùng Tiểu đoàn trưởng, anh ấy
cũng người họ Đinh, Đinh Văn Đơm, dẫu sao máu loãng còn hơn nước lã. Tôi nghĩ vậy
! Vả lại chuyện mất súng nếu để lộ ra sẽ ảnh hưởng đến thành tích của Tiểu đoàn.
Sau khi nghe trình bày dự kiến các phương án có thể xẩy ra và biện pháp tiến
hành khắc phục hậu quả, anh nói như thách
thức: - Cậu thử xem !
- Anh ủng hộ, em sẽ làm được. Tôi quả quyết .
Mười hai ngày
sau, Trưởng ban quân pháp sư đoàn dẫn đầu đoàn thanh tra xuống làm việc với Ban
chỉ huy Tiểu đoàn về việc đồng chí Hanh có đơn tố giác mất súng ngắn.
Khi đối chiếu số súng của tôi đang mang và số
trong sổ đăng ký. Hai số trùng nhau. Trong sổ không hề có vết tẩy xoá. Đồng chí
tiểu đoàn trưởng tươi cười nói với mọi người:
- Cậu nào đó tố cáo vu vơ ấy mà.
Chả trách gì mà ngày 4/3 vừa rồi họ Đinh làm lễ
ra mắt Ban liên lạc Họ Đinh tỉnh Nghệ An. Đúng là “ giọt máu đào hơn ao nước
lã”. Nếu anh ấy không có chút tình riêng, là người nhỏ nhen đố kị, giậu đổ bìm
leo, không tạo mọi điều kiện thì tôi đâu đã nhanh chóng thực hiện thành công một
phi vụ tày đình như thế được. Khi anh nghỉ hưu, tôi được lựa chọn trong số 3 Tiểu đoàn phó và được
bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng thay anh vào ngày 19/4/1983.
Hàm ơn bố con
người chiến sỹ đã giúp tôi thoát nạn, chúng tôi đã quyết định để cậu con trai
ông ấy ở lại nhưng cậu ta nhất quyết đi cùng Bạn. Tôi đạp xe về Vinh xin ý kiến
ông từ tốn:
- Nó thích thì để nó đi chú ạ, hơn nữa Khe Lang
như địa ngục trần gian, tôi cũng chẳng muốn nó ở lại trong ấy.
Không còn cách nào khác tôi đành để em ra đi. Cậu
vui vẻ lên đường sang Campuchia và ở luôn bên ấy không về. Đến nay vẫn chưa tìm
được mộ.
Chuyên mất
súng vợ tôi không muốn cho viết ra đây, tôi bảo:
- Anh có kể chuyện mất súng đâu em, đây như lời
khấn niệm, như nén hương thơm kính dâng hương linh ông ấy. Em thử nghĩ xem, một
người không là đồng chí, không là đồng đội, không thân thích, không máu mủ ruột
rà, một người trong giới giang hồ mà bất chấp hiểm nguy để giúp anh thoát khỏi
một án kỷ luật. Nếu không có con người ấy chắc chắn anh sẽ thành một lão nông
tri điền không hơn không kém, nếu vậy cuộc sống của chúng mình đâu có ngày hôm
nay ?! Những tưởng trả ơn bằng việc cho con ông ở lại không phải ra chiến trường.
nếu ông chấp nhận lòng anh đã phần nào thanh thản .Ông ấy giúp vô tư trong
sáng, chính sự vô tư trong sáng ấy làm anh day dứt suốt đời.
Chắc mọi người đang nóng lòng muốn biết vụ mất súng tôi đã xử lý ra sao.
Đó là câu chuyện dài kể ra đây chưa tiện, mong mọi người lượng thứ. Tuy nhiên để
đưa được khẩu súng từ giới giang hồ về với chủ là quãng thời gian vất vả, đấu
trí cam go và không kém phần nguy hiểm. Ai muốn biết chuyện xẩy ra như thế nào,
nếu có dịp gặp nhau tôi sẽ làm thỏa trí tò mò của các bạn.
Sau khi nghe giải bày, vợ tôi bảo:
- Thôi tuỳ anh ! Ông ấy chẳng bù cho cha con cậu
Hoàng Trọng Tâm !
Nghe cô ấy nhắc đến Hoàng Trọng Tâm, tôi nhớ
chuyện như vừa xảy ra ngày hôm qua. Có thể nói, trong suốt mấy năm đảm nhiệm chức
vụ Tiểu đoàn trưởng, đó là vụ hối lộ lớn nhất. Nếu tính theo thời giá hiện nay
vợ chồng tôi đút túi không dưới 200 triệu đồng tiền Việt…
Đi thao trường
về thấy chiếc U-oát biển xanh đậu trên sân bóng, đầu quay về hướng nhà BCH Tiểu
đoàn, vừa bước vào sân cậu liên lạc nhanh chân chạy ra:
- Thủ trưởng có khách ngoài Vinh vào.
- Ai đấy ?
- Bố cậu Tâm C3.
- Có phải bố cậu tân binh từng tuyên bố : “Chỉ cần
xe gỗ của cha tao là tao sẽ ở lại đi học lái xe” hay không ?”
- Dạ phải !
Tôi vừa vào
nhà mặc dù đang nói chuyện với các cấp phó nhưng ông vội vàng đứng dậy đi lại
phía tôi bất chợt ông chững lại quay nhìn mọi người, có lẽ ông không ngờ Tiểu đoàn trưởng
lại trẻ hơn cả 3 cấp phó. Sau một lúc chuyện trò mang tính xã giao, ông nháy mắt
cho cậu con trai đi ra. Ông đặt vấn đề:
- Lẽ ra vào thăm các thủ trưởng lâu rồi, nhưng
công việc của lâm trường nhiều quá.
Hôm nay vào
thăm cháu và cũng nhờ các thủ trưởng dìu dắt giúp đỡ để cháu trưởng thành, gia
đình tôi sẽ không quên ơn các thủ trưởng. Theo tôi được biết đợt Huấn luyện này
sẽ để lại một số cho đi học lái xe, cháu cũng thuộc diện được ưu tiên bởi cả
nhà tôi chỉ một mình cháu là con trai. Nếu các thủ trưởng giúp đạt nguyện vọng,
gia đình tôi đội ơn các thủ trưởng suốt đời .
Từ ngày làm Tiểu
đoàn trưởng chưa gặp người khách nào thẳng thắn như ông
Cuối cùng ông nói thêm:
- Chỉ cần dưới này đề nghị, phần cấp trên tôi sẽ
lo liệu.
Thực tình tôi rất bất bình bởi câu tuyên bố
“xanh rờn” của Hoàng Trọng Tâm. Con trai ông đang được huấn
luyện tại đại đội 3, khi nghe
ông nói đến “con một” tôi cũng thấy chạnh lòng. Giận nó mà để đi chiến trường
Campuchia thì ngày trở về chỉ là hy vọng
mong manh. Đến thời điểm đó tôi đã 2 lần đưa quân giao cho mặt trận 479 tại
Xiêm Riệp, chiến trường ấy còn nguy hiểm hơn cả những năm tháng ở mặt trận Tây
Nam Huế. Cái chết cứ rình rập từng giây từng phút ngày này qua ngày khác chẳng
lúc nào được yên thân .
Sau khi hội ý
BCH, tôi nói với ông:
- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kỹ hơn, nếu quả thực Tâm
là con trai một chúng tôi có thể để em ở lại, còn đi học lái xe thì tôi khuyên
bác : Tính tình như em Tâm bác không nên cho nó theo nghề lái xe.
Chào ra về mà
thấy khuôn mặt ông rạng rỡ như thể đã toại nguyện. Ông kéo tôi ra một góc rồi nói nhỏ đủ 2 người nghe:
- Tôi xin biếu Thủ trưởng một số gỗ tốt đủ để cất
một nếp nhà 3 gian, mong thủ trưởng vui lòng nhận cho để về nói với mẹ cháu cho
cô ấy yên tâm.
- Bác đừng làm thế. Nếu bác làm vậy cháu sẽ để cậu Tâm đi đấy.
Một chuyện ngoài sức tưởng tượng và tất nhiên
tôi đem chuyện này kể với vợ, cô ấy bảo:
- Đừng có mà làm dại.
Và rồi tôi thấy chưa ai táo bạo liều lĩnh như
ông, ông cùng vài người nữa(chắc là trợ lý) đánh hẳn một xe tải gỗ thành khí đ ậu trước cổng trường vợ tôi rồi vào khu tập thể tìm gặp cô ấy:
- Tôi đã làm việc với Thủ trưởng Hanh rồi, xin hỏi
cô nhà thủ trưởng thuộc xóm nào xã Nam lĩnh để tôi cho anh em chở về quê cho thủ
trưởng.
- Xin bác đừng làm thế, chủ nhật vừa rồi anh ấy
về đã nói chuyện này với cháu, bác không hiểu anh ấy đâu, nếu cháu nhận xe gỗ
kia thì anh ấy băm nhỏ cháu ra và buông sông mất, nếu bác cố làm vậy, anh ấy bực lên r
ồi cho con trai bác đi Campuchia
thật đấy.
Sau lời từ chối pha chút hăm dọa của vợ tôi, ông
cho chở gỗ về. Tuy nhiên ông bắt nhận một tấm lát hoa coi như món quà kỷ niệm. M ấy năm sau đó khi có nhà riêng, tôi đã dùng nó làm 2 mặt cánh cửa
khi thuê thợ đóng chiếc tủ 2 buồng.
Ban chỉ huy
chúng tôi để cậu Tâm lại đơn vị trong khi hầu hết đã sang Campuchia. Chẳng bao
lâu sau có quyết định do Tham mưu trưởng sư đoàn ký điều động Tâm đi học lớp
lái xe tại trường lái xe quân khu. Sau khi có quyết định nhiều lời bàn tán, có người bảo: ”Ông Hanh nuốt trôi cả xe gỗ thì thằng
Tâm đi học lái xe có chi là lạ”
Tôi triệu tập
cuộc họp bất thường tất cả cán bộ khung của Tiểu đoàn, trình bày toàn bộ sự việc
Hoàng Trọng Tâm. Để khẳng
định mình tôi quyết định:
Không chấp hành lệnh điều động của Tham mưu trưởng sư đoàn.
Sau một hồi tranh luận tôi lấy biểu quyết. Kết quả gần 60% đồng ý với quyết định của tôi. Rất nhiều lời khuyên
nhưng có lẽ ý kiến của cậu Quế (C trưởng C2) đã làm tôi thay đổi quyết định:
- Chấp hành hay không là do Tiểu đoàn trưởng,
nhưng theo tôi nếu không chấp hành chỉ thỏa mãn sự n óng giận tức thời rồi hậu quả Tiểu đoàn trưởng sẽ gánh chịu còn lâu dài bọn tôi cũng vạ lây. Thời nay ai bẻ
que chống trời được. Hơn nữa cậu ta là con một, để cậu ấy đi nếu không có ngày
về lúc ấy anh sẽ ân hận suốt đời. Con cái mấy người quyền thế giàu có được mấy
đứa không vênh vang như cậu ấy. Anh nên bỏ qua cho nó, còn ai nghĩ sai về anh rồi
họ cũng sẽ hiểu đúng thôi. Gan ruột anh chúng tôi chẳng lạ chi.
Chưa đến một
tuần sau tôi biết ai đã nhận xe gỗ đó. Có điều ông ấy đã từ trần cách đây mấy
năm, tôi không muốn nhắc lại tên b
ởi nghĩa tử là nghĩa tận. Xe
gỗ ấy là rất nhỏ so với những điều ông ấy từng làm. Có hôm ngồi Cà phê tôi đem
chuyện kể với bạn có người bảo: “Tệ tham nhũng có từ lâu làm sao mà chống được,
nó là cái hiện hữu, chống chỗ này phình chỗ kia. Bóp quá mạnh nó nổ tung mặt mình lại bị bỏng”Nếu đó là lời khuyên cho
tôi thì đã quá muộn màng, năm 1987 tôi đã quyết định chuyển ngành,tránh xa môi
trường đầy cám dỗ và nguy hiểm ấy...
Mấy anh em
trong BCH tiểu đoàn đang ngồi hóng mát và chờ bữa cơm chiều, một chiếc xe Gát 63
lượn 2 vòng rồi đỗ trên sân bóng, đầu quay về hướng chúng tôi. Cánh cửa bên
phía vô lăng mở ra, lái xe bước xuống. Tôi dễ dàng nhận ra Hoàng Trọng Tâm. Cậu
ta nhảy lên thùng xe khệ nệ bê theo một
bọc gì đó rồi vui vẻ đi về nhà chỉ huy:
- Em chào các Thủ trưởng ! Em đã ra trường nhận
xe nửa tháng nhưng hôm nay mới về thăm các Thủ trưởng được. Bố em gửi biếu các
Thủ trưởng mấy cân thịt lợn rừng ăn cho biết. Chợt nhớ khi còn ở chiến trường có hôm cánh lính chúng tôi phải ăn thịt
lợn rừng thay cơm.
Tâm xắng xởi
và đắc ý lắm, thậm chí cậu ấy còn hướng dẫn cho cậu Lưu - liên lạc cách thức
làm sạch lông, không những thế cậu xắn tay áo làm sạch miếng thịt mới chịu chào
ra về, lúc chia tay tôi vẫn không quên nhắc nhở:
- Nghề lái xe vất vả và nguy hiểm em phải luôn cẩn
thận đấy.
- Thủ trưởng yên tâm đi, hết nghĩa vụ em xin về
lái xe cho Lâm trường của bố, nếu lái mà kiếm chác được thì em lái, còn không bố
em sẽ bố trí công việc khác.
- Chúc mừng cậu.
Chưa được 2
năm Tâm có quyết định ra quân về lái xe cho Lâm trường của bố, có lẽ “kiếm chác
được”nên cậu ta vẫn “ôm” chiếc xe tải mặc cho vất vả hiểm nguy, lái xe chở gỗ
lâm trường ai còn lạ gì nữa.
Cách đây không lâu khi biết bố Tâm về hưu sống tại
TP Vinh tôi đã tìm đến thăm ông, dầu sao cũng hàm ơn ông đã biếu tấm lát hoa để
làm 2 cánh tủ. Sau 33 năm gặp lại không ngờ ông thay đổi nhiều đến thế, vào
chuyện ông buồn rầu:
- Nếu ngày đó nghe lời Thủ trưởng (ông vẫn gọi
tôi là Thủ trưởng) biết đâu vẫn còn thằng Tâm, hoặc ít ra gia đình tôi cũng là
gia đình liệt sỹ…
Tôi lặng nghe ông nói mà lòng càng trĩu nặng, càng thương ông khi biết hoàn cảnh hiện nay: Căn nhà ở quê
ông để lại cho bà vợ cả cùng con gái và con rể. Ông về Vinh sống với bà vợ hai
và 2 cô con gái. Tâm bị thương nặng trong vụ lật xe, mặc dầu đã kịp thời đưa ra
viện trung ương nhưng vẫn không qua khỏi. Khi tiễn tôi ra về ông đề nghị:
- Sắp tới làm giỗ năm thứ 25 của cháu nếu thủ
trưởng còn thương nó thì mời thủ trưởng đến thắp cho cháu một nén hương .
Tôi đã không nỡ chối từ.
Chưa hoàn toàn tin vào
thuyết nhân quả, nhưng câu chuyện sau đây làm cho tôi dần tin “Nhân quả” là có
thật.
Trung tâm huấn luyện thuộc Sư đoàn 441 thành lập ngày 28/2/1978 đóng
quân trên Khu vực Khe Lang nằm giáp ranh giữa 2 huyện Đức Thọ và Can Lộc. Với
nhiệm vụ huấn luyện tân binh giao cho chiến trường Campuchia. Mọi người vẫn biết
nơi đây được coi như “Địa
ngục trần gian”. Có nhiều nguyên nhân để người đời gọi nó với cái tên rùng rợn
như vậy.
Trước hết đó là môi trường sống. Chẳng bao lâu
sau ngày có quyết định thành lập, công việc tuyển quân và tiếp nhận huấn luyện
nhanh chóng được triển
khai. Để bảo đảm nơi ăn nghỉ cho trên dưới 6.000 quân mỗi đợt, mỗi năm 3 đợt.
Dãy núi Trà sơn bạt ngàn bạch đàn, phi lao gần hai chục năm tuổi nhanh chóng bị
chặt hạ để làm doanh trại. Khi tôi về nhận nhiệm vụ tại Sư đoàn chỉ còn đất trống
đồi trọc. Tân binh sau những giờ tập mệt nhọc tìm một bóng râm để tránh nắng là
điều mơ ước. Nhu cầu huấn luyện ngày càng tăng, nhu cầu doanh trại ngày càng lớn,
thế là cán bộ chiến sỹ lại vượt qua dốc Thượng Sỹ sang xã Phương Mỹ huyện Hương
Khê để phá rừng. Rừng Phương Mỹ lại cạn kiệt, cạn đến mức mà trước đó đàn voi rừng
hơn 20 con lớn bé đủng đỉnh kiếm ăn dọc núi Trà Sơn phải bỏ vào rừng sâu sinh sống.
Từng đoàn quân lại ngược
đường số 8 lên Sơn Kim, Sơn Tây thuộc huyện Hương Sơn chặt phá rừng trồng của lâm
trường. Khi rừng cây mỡ do công nhân lâm trường trồng, đường kính trên dưới 20
phân thưa dần, đoàn quân lại kéo nhau vào rừng sâu. Có thể nói đây là gian đoạn
khai hỏa cho “công cuộc tàn phá rừng nguyên sinh” kéo dài đến tận ngày nay. Từng
đoàn bè nối đuôi nhau xuôi dòng La giang, trước mỗi chiếc bè là 3 khẩu AK gác
chéo nhau sẵn sàng nhả đạn, trên vòm lán che mưa che nắng là lá cờ đỏ sao vàng
phấp phới bay, dăm bảy cán bộ chiến sỹ trên bè mình trần trùng trục dầm mưa dãi
nắng, người đen như
thổ dân Angola. Không nhân viên kiểm lâm nào đủ dũng khí ra lệnh dừng bè để kiểm
tra. Ban đêm cắm sào vào chỗ nào đó để nghỉ thì bãi ngô non nơi ấy tan hoang
như thể voi dày. Việc đi rừng “khai thác” gỗ làm nhà là một nỗi khổ của tân
binh trong “địa ngục trần gian”ấy.
Nỗi khổ thứ hai là ô nhiễm
nguồn nước nghiêm trọng.15 Tiểu đoàn chỉ có 2 Tiểu đoàn không ăn nước từ hồ Khe
Lang. Ai cũng nghĩ nước hồ sạch lắm nhưng biết đâu 13 tiểu đoàn đóng quân quanh
hồ đều xả thải xuống đó. Anh nào chưa bị ghẻ chưa gọi là lính 441.
Tuy nhiên những nỗi khổ đó chưa thấm gì so với
tình trạng quân phiệt mà các em tân binh hứng chịu. Làm sai bất cứ việc gì, hay
làm chưa vừa lòng cán bộ bất cứ việc gì cũng có thể chịu phạt. Phạt đứng nắng;
Phạt đi lấy củi; Phạt vắt than; Phạt cuốc đất; Phạt đứng hố xí, vv…Nhưng kiểu
phạt chôn chân thì thời huấn luyện trước lúc đi B tôi chưa từng thấy. Bắt được
lính bỏ ngũ về, động tác đầu tiên là vào kho chứa dụng cụ tăng gia sản xuất, mấy
người thì bấy nhiêu chiếc xẻng, tự đào hố cá nhân, khi đã ngang đầu gối thì lấy
xẻng tự lấp chân mình và đứng đó cho tới gần sáng. Có hôm cán bộ đại đội , tiểu
đoàn đi kiểm tra phát hiện, bắt đào lên thì 2 chân đã tím bầm. Cán bộ trung đội,
tiểu đội là người trực tiếp quản lý tân binh, chịu bao nỗi vất vả cực nhọc do
tân binh gây nên, việc hành xử thô bạo với lính là điều khó tránh đối với những
cán bộ vô cảm.
Nhưng một cán bộ chính trị hành xử tàn bạo với cấp dưới là điều
khó chấp nhận. Đó là trường hợp Phạm Xuân Cảo, quê Hải Hưng, chính trị viên Tiểu
đoàn 7. Chuyện của Cảo hầu như sỹ quan toàn Sư đoàn ai cũng biết. Cưới nhau đã
17 năm nhưng chỉ từ khi Cảo đưa vợ vào đơn vị ở liền 3 tháng, vợ anh mới chịu
sinh ra một thằng cu, cả họ mừng. Khi con được 24 tháng Cảo đưa nó vào ở cùng bố.
Những tưởng có đứa con trai sẽ làm giảm bản tính nóng nảy hách dịch khét tiếng
của anh ta. Nào ngờ chứng nào vẫn tật ấy. Nguyễn Thị Nam là chiến sỹ nuôi quân,
quê Nam Đàn, tiểu đoàn trưởng cho về nhà 3 ngày. Nam trả phép chậm mất 2 tiếng
đồng hồ. Cảo không phạt vắt than như nhiều trường hợp khác. Đã 12 giờ nhưng Cảo
bắt Nam một mình vào rừng Tân Hương chặt đủ 40 kg củi mang về, trời chiều nắng
vẫn oi nồng, Nam lội xuống khe dầm mình cho đỡ mệt, đang trong những ngày có
“chiến tranh”. Đêm về Nam sốt ly bì, 2 ngày liền không ăn uống gì, đưa lên bệnh
xá thì đã muộn, Nam trút hơi thở cuối cùng khi vừa tròn tuổi hai mươi.
Chẳng ai truy cứu trách nhiệm của Cảo.
Thằng con của Cảo được các chú cán bộ trung đội,
tiểu đội “huấn luyện” nên nghịch như quỉ con. Xuống trung đội nào cũng vậy, một
chú tân binh đóng giả gái, 2 chiếc bát bỏ vào ngực tựa như cặp bồng đào của chị
em, một hồi còi vang lên là tập cho thằng nhỏ nhảy lên nắm lấy 2 chiếc bát, miệng
la:
-Bọp! bọp!..Bọp bọp !!
Mỗi lần “hoàn thành tốt nhiệm vụ”, cậu con lại
được thưởng một chiếc kẹo. Chẳng bao lâu sau cậu ta thành thạo như thể thò tay
vào túi lấy kẹo. Thành thạo như tân binh tháo lắp thông thường súng AK.
Khoảng 8h sáng ngày chủ nhật, các cô nuôi quân
đang vo gạo nấu cơm trưa. Mấy chú trung đội dẫn “quỷ con” ra giếng nước chơi,
nhằm để cậu ta “thao tác trên thực địa”. Thấy con thủ trưởng đến gần mọi người
tranh nhau bồng bế.
Toe! Toe! Toe! … Tiếng còi cách đó không xa vang
lên. Đúng “hiệu lệnh” “quỷ con” chộp lấy 2 bầu vú cô nuôi quân bóp nhấn, miệng
liên hồi kêu: Bọp ! Bọp !...Bọp Bọp…
Quá bất ngờ và xấu hổ, cô gái buông thằng bé khỏi
tay mình chạy trốn, chẳng may đầu quí tử đập vào thành giếng. Khi đưa lên phòng
quân y thì cậu ta đã mềm oặt như tàu chuối héo.
Sau sự kiện đó nhiều người bảo:
- Cô Nam chết khi chưa có chồng, ở dưới ấy buồn
nên về bắt thằng bé xuống làm con nuôi.
Bởi quá đau buồn nên Cảo làm đơn xin nghỉ mất sức.
Sức mất chưa đủ phần trăm nên Cảo đành phục viên. Từ đó đến này chẳng ai có tin
tức gì về Phạm Xuân Cảo, mặc dù Ban liên lạc CCB Sư đoàn 441 vẫn tổ chức gặp mặt 2 năm một lần vào ngày 28/2 tại trạm
khách quân khu./.
Thứ bảy, ăn
xong cơm trưa chẳng nghỉ ngơi gì tôi chuẩn bị mọi thứ cần thiết để về với vợ
con. Không quên mang theo khẩu CKC để vào núi Hồng Lĩnh đi săn - đi săn là một
thú vui có từ hồi còn ở chiến trường. Vừa dựng chiếc xe đạp vào thềm nhà thì
cũng vừa lúc cô ấy đang khóa cửa để lên lớp buổi chiều. Chẳng thấy tươi cười
như thường lệ, cô ta quay lại phòng, mở cặp lấy ra một chiếc phong bì vứt đánh
bẹt xuống mặt bàn:
- Đọc đi !Tôi không ngờ anh có chiếc mặt
nạ hoàn hảo đến vậy.
Xong, mang vẻ mặt “bánh đa dấp nước”
đi lên lớp và giờ nghỉ giải lao không về như mọi ngày.
Tôi mở phong bì ra xem. Nét chữ con gái. Thôi chết ! Đây là bài thơ tôi viết về
một cô gái có chồng vượt biên, tên cô ta là Liễu, là con dâu ông Trường, nguyên
là một cán bộ trong kháng chiến chống pháp, do bất đồng nhiều quan điểm nên ông
vượt tuyến vào Nam phục vụ cho chế độ VNCH. Chức vụ cao nhất của ông trước lúc
Sài gòn thất thủ là thư ký cho TT Nguyễn Văn Thiệu. Toàn bộ bài thơ chỉ sai một
chữ ở câu cuối cùng, nguyên bản tôi viết: “ Thôi chào em nhé ! KHÔNG chờ hồi
âm” nhưng trong bản chép tay này lại ghi:”Thôi chào em nhé ! ANH chờ hồi âm”
“Tình ngay lý gian” không có cách nào biện
minh. Đọc xong tôi gục đầu xuống bàn cố tìm con đường đi của lá thư may ra có
thể cứu vãn cho mình. Cô ấy giận là đúng thôi, có bị đánh đòn cũng sẽ cúi đầu
nhận tội, thậm chí có phải học cách của Hàn Tín cũng phải làm, vợ mình chứ đâu
phải Hạng Vũ, có chui qua thì vẫn là vợ miễn là cô ấy tha cho, vì sự hiểu lầm
mà để mất cô ấy thì đời còn gì nữa?! Trước mắt trong thời gian chờ vợ đi dạy về
tôi vào núi đi săn cố gắng bắn được nhiều chim Đa đa càng nhiều càng tốt (có
hôm tôi đã mang về 16 con vừa Đa đa vừa chim bồ câu trời) may ra làm cho cô ấy
bớt giận.Thật đen đủi, bụng dạ lúc nào cũng nghĩ về bức thư nên 10 viên đi ăn
sim mất 9.
Buồn bã quay đi việc đón con, giặt giũ
và nấu cơm để khi cô ấy về đã có mâm cơm tươm tất với món chim Đa đa thịt trắng
như thịt gà, thơm lừng. Tôi cố làm lành nhưng cô ấy thì không.
Trước lúc ngồi
vào bàn ăn, cô ấy giội một gáo nước lạnh:
- Từ nay tôi
vẫn cho phép anh đi về với con như bình thường, anh cứ quan hệ với cô ta thoải
mái, tôi đã có 2 mặt con nên chẳng dại gì làm đơn ly dị để sau này mang tiếng con
không cha. Vả lại nếu tôi có bỏ anh thì thiên hạ lại nghĩ tôi là người xấu bởi
anh có chiếc mặt nạ quá hoàn hảo, không ai nghĩ anh lại là kẻ đểu giả đến như
thế. Muốn sung sướng thì cứ tiếp tục theo cô ta. Núp váy đàn bà mà không biết
nhục !Thôi ! Ăn đi ! Tôi là giáo viên chỉ có thế này thôi !
Nghe nói thế
tôi lại càng thương cô ấy. Làm một thằng
sỹ quan của một quân đội từng đánh thắng 3 đế quốc to mà lương không nuôi đủ một
con chứ đừng nói đến hai. Nếu bỏ bát thịt Đa đa ra ngoài thì chỉ còn 2 con cá
trích, đĩa dưa cải củ muối chưa kịp đổi màu, bát canh rau lang nước trong xanh.
Gọi là bữa cơm nhưng đâu phải cơm. Hạt Bo bo nhai đến rã quai hàm. Nhớ lại những
lần đi vào thành Huế nắm tình hình đối phương, thấy sỹ quan QLVNCH lái xe chở vợ
con dạo phố mà chạnh lòng.
Những chủ nhật trước được về, trong bữa cơm cô ấy xé thịt cho con, rồi cũng
dành phần mình vài miếng cổ cánh, bòn lấy chút thịt còn sót trên những cọng
xương mà con bỏ lại, ăn cho biết thịt Đa đa thơm ngon đến nhường nào. Hôm nay
cô ấy không đụng đũa, tôi gắp bỏ vào bát cô ấy trả lại:
- Cảm ơn !
Cậu con trai lại gắp bỏ vào bát mẹ:
- Không khiến !
Tôi không thể
thanh minh gì lúc này. Lặng lẽ ngồi ăn như kẻ tử tù ăn bữa cơm trước lúc lên
máy chém. Ăn xong giành phần rửa bát nhưng cô ấy không cho.
- Từ nay anh là khách của gia đình tôi!
(Từ trưa đến giờ cô ấy vẫn xưng “tôi”)
Khi hai con đã đi ngủ cô ấy ngồi vào bàn
chấm bài kiểm tra tôi mon men lại gần cố ý thanh minh:
- Không phải nói gì nữa đâu, tôi còn biết
cô ta ngang nhiên ra gặp anh giữa thanh thiên bạch nhật, rồi nửa đêm anh đi vào
Kỳ Anh gặp cô ấy. Người của tôi đầy ra trên ấy, mọi hành động của anh họ nắm hết
cả.
Thôi chết, cô ấy có “điệp báo” thật. Có điều vào lúc 11h đêm hôm ấy tôi cùng một trung đội
trưởng vào Kỳ Anh là để điều tra vụ 3 tháng liền tiểu đoàn mất 3 con lợn thịt
chứ đâu phải vào gặp cô Liễu.(Chính điều tra ra thủ phạm của vụ mất lợn dẫn đến
vụ mất súng của tôi)
Ra thế ! Tôi
quay ra giả vờ đọc báo nhưng bụng dạ đang cố tìm ra kẻ nào cố tình gây rối gia
đình mình nhưng cuối cùng vẫn bó tay. Sau này tôi biết đó là em gái của cô giáo
viên cùng tổ kế toán với vợ, cô ta là y sỹ ở ban quân y sư đoàn. Đợi cho cô ấy
đi ngủ, tôi nhẹ nhàng vào ôm lưng,cô gạt tay ra, mãi rồi cô ấy cũng nằm yên nghe tôi thanh minh, tôi phân tích từng câu từng
chữ trong bài thơ, tôi biết cô ấy là người giàu lòng vị tha, cô ta quay phía
tôi, tay chỉ về chiếc gường một. Lòng khấp khởi mừng thầm, có lẽ vợ mình đã tha
thứ, hoặc chí ít thì cứ để đó xem xét sau, tôi vui ra mặt đi về chiếc giường,
giũ chiếu, mắc màn nằm chờ miệng lẩm nhẩm câu ca dao: “Mù u ba lá mù u…”.
- Đừng mơ !
Tiếng cô ấy từ chiếc giường đôi nói ra.
Ấp con ngủ yên rồi cô ấy đi về chiếc giường một vén màn lên, tôi hỏi :
- Sao lại vén màn lên ?
- Không trăng sao chi hết !
Chưa hiểu cô ấy định làm gì, thấy nhẹ
nhàng ngồi lên bụng, cứ ngỡ có chiêu trò gì mới, lòng rạo rực đón nhận. Bất ngờ
cô ấy nắm lấy hai tai rồi nhấc đầu lên lại dằn xuống giường, cứ thế liên hồi miệng
rít qua kẽ răng:
- “Thương vay, khóc mướn” ! “Thương vay khóc mướn”! Trị cái tội “thương vay
khóc mướn”
Tôi đau thực
sự nhưng biết cô ấy đang xả giận nên cố gắng chịu đòn mà nếu giãy ra cũng khó,
bởi tôi chưa nổi bốn lăm ký lại nằm ngửa yếu thế, còn cô ấy nặng bằng bao xi-
măng. Đau nhưng lại thấy vui vui bởi kể từ ngày yêu nhau chưa thấy cô ta hành xử
thô bạo như thế. Khi đã không còn chịu được nữa tôi la lên. Thấy động thằng con
trai đầu tỉnh giấc. Nó chạy lại giằng tay mẹ nó và hét toáng lên :
- Không được đánh bố ! Không được đánh bố
!
Đang trong cơn giận dữ cô ấy rút chiếc roi vẫn cắm bên vách để dọa con hàng
ngày chỉ vào mặt:
- Im ngay ! Đi ngủ !
Cô ấy buông tôi ra, chạy về phía con lôi
nó lên giừơng bắt ngủ tiếp rồi quay lại phía tôi, sẵn roi trong tay quất mạnh
vào đùi ra lệnh:
- Dậy đi tắm mau, hôi như chồn !
Đúng là hôi thật, cả chiều trườn bò trong núi về lại bao nhiêu công việc để lấy
công chuộc tội và cũng chưa kịp tắm. Tôi
lẩm bẩm:
- Như chó Becgiê !
- Nói lại ! Ai chó ?
- Dạ thưa chị ! Em bảo mũi chị thính
như chó Becgê ạ !
Sẵn roi trong tay quất tiếp vào mông làm tôi đâu điếng:
- Đi mau !
Tôi ngoan ngoãn như đứa trẻ mắc lỗi được cha tha đòn lẳng lặng lấy gầu đi ra giếng
công cộng…
Từ lúc xẩy ra cuộc “tập kích” biết “chiến sự” xẩy ra, để thỏa trí tò mò mấy cô phòng
bên thức dậy qua kẽ vách nhìn trộm. Tiếng ai đó nhận xét:
- Em đã bảo rồi mà, đàn ông mà hiền như
cục đất thế nào cũng có ngày cô ấy cưỡi cổ cho mà xem, hôm nay mọi người nhìn
thấy rồi đó. Em nói không sai.
Trên đường ra giếng nước tôi thầm nghĩ: Nếu cô ấy không như thế thì đã đồng ý
cho vài đảng viên “dìu dắt giúp đỡ” vào đội ngũ “những người tiên phong” từ lâu
rồi. Còn tôi thì hiền thật, “hiền cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ tan” !
Đó là lần bị
vợ giận lâu nhất, ngoài ra trong suốt gần 50 năm qua cũng nhiều lần làm cô ấy
giận, nhưng chẳng lần nào quá 30 phút mà chưa cần sử dụng đến bài “…ba lá mù
u…”
Sáng thứ 2 trở về đơn vị lòng khấp khởi mừng thầm vì được vợ tha cho tội
“thương vay, khóc mướn”. Vừa bước chân vào nhà thì thấy cậu Minh trưởng Ban
quân pháp sư đoàn đang ngồi chờ tại phòng giao ban, sau một hồi xã giao Minh bắt
đầu đặt vấn đề:
- Sáng nay tôi xuống gặp anh để truyền
đạt tinh thần của cụ Khởi, Cụ bảo chiều nay mời anh lên gặp Cụ, Cụ muốn trao đổi
với anh về vấn đề gì đó ?
- Ông biết chuyện gì thì giúp nói cho
mình biết trước để chuẩn bị tinh thần được không ?
- Hình như anh có đơn tố giác về việc
có quan hệ với một người phụ nữ có chồng vượt biên sang Mỹ !
Thôi chết, lại chuyện bài thơ tôi viết về
cô Liễu. Bài thơ sau khi ra đời đã nhanh chóng lan đi khắp tiểu đoàn, rồi sư đoàn.
Đi xuống đại đội nào là anh em lại mang cây Ghi-ta đến yêu cầu tôi vừa đàn vừa
ngâm. Thậm chí, anh Thụy bác sỹ Ban Quân y sau nhiều năm xa nhau đến khi gặp lại
vẫn yêu cầu tôi đọc cho nghe. Không ngờ bài thơ ấy lại mang đến cho mình nhiều
phiền toái như vậy. Chả là một tuần sau khi bài thơ được phổ biến, cậu liên lạc
của BCH bảo:
- Mấy lâu nay khô khan quá các thủ trưởng ơi ! Cho em về vài ngày kiếm ít đồ biển
lên cải thiện.
Năm ngày sau
Quý (tên cậu liên lạc) trả phép, thấy cậu ta ngồi sau chiếc xe Cúp màu đỏ láng
bóng, lái chiếc xe là một cô gái mà thoạt nhìn ai cũng mê ngay. Tôi biết chắc
không ai ngoài cô ấy. Xuống xe Quý nhanh chóng kéo tôi vào phòng nói vội:
- Em đã gửi bài thơ cho chị Liễu chị ấy
nhất quyết đòi chở em ra!
- Mày giết tao rồi !
Trước mặt tôi là một cô gái mắt sâu thẳm, đượm buồn như Đức mẹ đồng trinh,
không son phấn gì nhưng nước da trắng mịn, lại pha chút nắng hanh heo đường trường
nên đôi má hây hây như chào mời. Là dân theo Chúa nên nói năng dịu dàng.“Dẻo mỏ”
như tôi mà vẫn trở nên ngọng nghịu khi giáp mặt cô gái. Cậu Quý như con yêu
tinh nháy mắt cho mọi người đi ra, chỉ để mình tôi và Liễu đối diện.
- Em mong anh đừng mắng Quý mà tội nó, nhà
em và nhà Quý gần nhau và cùng xã. Nhận được thư của anh là em đi ngay. Lẽ ra
em viết thư xin phép anh trước, đường đột thế này biết anh không vui nhưng nhân
lúc Quý trả phép em xin theo nó, nếu không chẳng biết dịp nào mới ra thăm anh
được…
Hầu như tôi chỉ ngồi nghe cô gái nói, hơn nữa những điều cần nói tôi đã viết ra
trong bài thơ. Có một điều cô ấy không biết được rằng: Bài thơ cô nhận được
không phải do chính tay tôi gửi mà do cậu Quý chép lại bỏ vào bì thư và đề:
ĐHH- Gửi em:Thúy Liễu. Tôi không ngờ cậu liên lạc xin về lấy thực phẩm chỉ là
cái cớ để mang bài thơ về cho cô ấy.
Cuối cùng Liễu đề nghị:
- Dân làng ai cũng bảo em sung sướng lắm,
chỉ có anh là người duy nhất hiểu được nỗi khổ của em, nếu không phiền hà gì, cho
phép em nhận anh làm anh kết nghĩa, em chẳng mong gì hơn thế !
Sau lần gặp ấy không biết tôi sợ cô ta
hay sợ bản thân mình, sợ đến mức mà có lần ban quân lực sư đoàn phân về nhận
quân tại huyện Kỳ Anh tôi đã xin đổi đi huyện khác (ngu hết chỗ nói).
***
Bước vào nhà trưởng phòng chính trị sư
đoàn, thấy tôi ông rất niềm nở:
- Vào đây! vào đây! Vào đây anh em mình
nói chuyện cho ấm cúng !
Thoạt nghe đã thấy mát lòng, ông vào đề
ngay:
- Chả là mình nghe anh em xì xào về cậu,
mình nghĩ : chẳng lẽ cậu lại dại dột, ấu trĩ về chính trị đến như vậy bởi thế
hôm nay muốn mời cậu lên nghe cậu nói thực hư thế nào ? Thế thôi !
- Tôi chưa hiểu trưởng phòng muốn nói về
vấn đề gì ?
- À, về việc có người tố giác cậu có
quan hệ bất chính với cô gái nào đó ở Kỳ Anh, cậu đã viết thư và đi lại với cô
ta, có gì cậu cứ nói thật với mình, nếu lỡ ra có việc gì mình còn bảo vệ cậu, bảo
vệ cán bộ , đảng viên. Người có năng lực như cậu mà ra khỏi quân đội thì tiếc lắm
!
Nghe xong , tôi hỏi lại:
- Anh đã đọc hay nghe bài thơ tôi viết về
cô ấy chưa? Nếu chưa để t ôi đọc anh nghe.
Sau khi nghe tôi đọc toàn bài bằng điệu
ngâm thơ, điệu mà tôi vẫn thường ngâm cho mọi người nghe .
Ngâm xong tôi nói lại hoàn cảnh ra đời, phân tích tính tích cực của một vài khổ
trong bài thơ, rồi cho ông biết thêm một chút lai lịch về cô gái và mối quan hệ
giữa tôi và cô ấy ở mức nào .
Nghe xong ông ấy bảo:
- Đây là bài thơ hay giàu cảm xúc, nếu
chỉ dừng lại ở đây thì chẳng việc gì, để mình trao đổi lại với Sư đoàn trưởng
Ra thế , cả sư trưởng cũng quan tâm.
Ra về, trưởng phòng chính trị không quên
nhắc nhở:
- Đúng ! Cậu phải tránh xa cô ấy ra, tiếp
cận với cô ta là có thể kết tội cậu có quan hệ với kẻ thù đấy !
Sau đây là toàn văn bài thơ tôi viết sau khi nghe anh em lính Kỳ Anh kể về một
cô gái giàu có nhưng chồng cô đã vượt biên bằng đường biển để lại 2 đứa con
trai khi cô mới 22 tuổi. Sự việc lặp lại mấy chục năm về trước khi ông Trường
vượt tuyến vào Nam cũng để lại cho vợ 2 người con trai
“ GỬI EM !
Nghe lời họ nói về em
Mà sao anh thấy con tim bồi hồi
Không vì phú quí Liễu ơi
Để anh lại viết mấy lời gửi em
Nhà giàu thật!
Anh thốt lên
Nhưng buồn thay cảnh đêm đêm lạnh lùng
Con em hai đứa biết không ?
Gọi ai bằng bố cho lòng sướng vui
Dù cho của chất ngang trời
Nhưng tình chồng vợ chia đôi giữa đường
Em một phương, chồng một phương
Lấy ai tâm sự đêm trường hỡi em
Con thơ khi chúng lớn lên
Thấy ông , cha nó đứng trên đất thù(*)
Mai sau đất nước mạnh giàu
Ngẫm xa mới thấy quặn đau nỗi lòng
Còn em khi gọi tên chồng
Chỉ nghe tiếng sóng Biển đông vỗ bờ
Em giàu nhưng sống bơ vơ
Dù đi xe cúp Pô-giô cá vàng
Thương em trong cảnh giàu sang
Mà thiếu cái gốc: Tim vàng. Liễu ơi!
Nhà em của chất ngang trời
Nhưng không còn nữa lòng người thương yêu
Chẳng bằng cuộc sống chắt chiu
Có con, có bố sớm chiều bi bô
Thương em viết mấy vần thơ
Biết rằng anh chẳng bao giờ gặp em
Từ đây em nhớ đừng quên
Có chàng quân tử, một miền xa xôi
Đem lòng thương cảm một người
Sống trong nhung lụa mà đời quạnh hiu
Còn anh, dòng dõi họ Đinh
Tên Hanh,
đệm Hữu lênh đênh giữa dòng
Vì thời nên kiếp long đong
Mười năm quân ngũ vẫn không được về
Cấp bậc chức tước chẳng mê
Chỉ mê dưới ánh trăng khuya vợ chồng
Người đàn người hát thanh trong
Bên nôi con ngủ, giấc nồng say sưa
Liễu ơi, thư cũng đã vừa
Thôi, chào em nhé, không chờ hồi âm./.
20/10/1982- Phú lộc-Can lộc- HT”
Hội CCB Đại đội trinh sát
E6 được thành lập tháng 9/2009 do sáng kiến của Đại tá Trần Đình Duyệt và 3 người
khác. Với tôn chỉ hoạt động là kết nối thông tin để tìm kiếm mộ liệt sỹ, gặp gỡ
giao lưu, tham quan du lịch…
Cuộc gặp mặt năm nay (2017) do anh em Nghệ An
đăng cai được tổ chức tại trạm khách T50 QK4 vào các ngày 24,25,26/3 do vợ chồng
Trần Đình Duyệt làm mạnh thường quân. 3 ngày gặp gỡ giao lưu là 3 ngày ngập
tràn ký ức về những năm tháng xưa. Có người đề nghị đổi tên trang hồi ký của
tôi thành KÝ ỨC TRUNG ĐOÀN. Nhiều người yêu cầu viết thêm chuyện này chuyện
kia. Tên gọi thì không thể đổi, bởi trang hồi ký này không chỉ viết về trung
đoàn. Còn chuyện của người này người kia ư ? Những chuyện anh em nhắc đến nếu
viết ra được chắc cũng hấp dẫn lắm nhưng với suy nghĩ: Những chuyện nắm không
chắc là không nên đưa vào. Bởi trong 10 năm tồn tại và đồng hành cùng Trung
đoàn, gần hai trăm cán bộ chiến sỹ được bổ sung cho Đại đội, hy sinh mất phần lớn
nhưng nay vẫn còn gần 60 người đang sống rải rác trên nhiều tỉnh thành trong và
ngoài nước, viết thiếu chính xác anh em lại cười : Thằng Hanh thành “ nhà văn”
mất rồi ! Sau đây là câu chuyện được nhiều người nhắc tới.
Trước lúc viết tôi đã điện
cho Kiệt, anh ấy khuyên:
- Em xin anh, em chẳng là gì đâu, em cũng đã nhiều
phen lao đao. Hơn nữa em đâu phải là kẻ háo danh, em xin anh để em yên ổn làm
ăn, xã hội bây giờ phức tạp lắm!
Tôi trả lời:
- Chuyện đâu phải của riêng em, cũng đâu phải lỗi
ở mấy người chỉ đạo thi hành kỷ luật em mà đó là ý thức hệ của một giai đoạn lịch
sử, vả lại đây là nguyện vọng của anh em CCB Đại đội ta.
Vào những ngày đầu chế độ
VNCH sụp đổ, trên đường phố Sài gòn người ta thấy một anh lính Bắc Việt trong bộ
quần áo Tô châu và chiếc mũ tai bèo, chiếc bao tải vắt vai xủng xoảng tiếng vỏ
chai lọ. Chẳng cần sĩ diện tư thế của một người lính bên thắng cuộc. Bữa ăn của
chàng hầu như chỉ có bánh mì chay, nước uống được đóng chai từ vòi nước công cộng.
Không ít người cám cảnh thương chàng, nhiều người muốn chia sẻ nhưng thấy chàng
lầm lì nên ai cũng ngại. Dân giang hồ chẳng ưa gì chàng, bởi xem chàng là hiện
thân của nguyên nhân làm đảo lộn cuộc sống vốn đang tự tung tự tác của họ…
Chiều hôm ấy một băng đảng đang tụ tập ăn nhậu,
thấy chàng vác bao tải tới:
- Ê ! Lại đây làm vài lon !
Chàng chẳng nói chẳng rằng, ngồi cách đó không
xa chờ họ ăn xong để xin vỏ chai, vỏ lon. Một người lấy lon bia chưa mở tung về
phía chàng bố thí:
- Ê ! Cầm lấy !
Không biết vô tình hay cố ý chàng tung chân ra đỡ,
hộp bia bay trở lại rơi đúng chiếc bàn ăn khiến vài món ăn tung tóe. Trưởng
băng lớn tiếng gọi:
- Chủ quán ! Dọn bàn ! Thay món mới !
Bồi bàn nhanh chóng làm theo yêu cầu. Khi các
món ăn đã bày ra bọn họ lại vui vẻ như không có việc gì xẩy ra. Ăn xong gọi chủ
quán tính tiền:
- Ê ! Thằng kia ! Lại đây tao bảo !
Ngỡ bọn họ gọi lại cho nhặt ít vỏ lon vương vãi
- Thanh toán tiền đi !
- Sao vậy ?
- Mày làm đổ hết thức ăn của bọn tao, gọi thêm
thứ này mày phải trả chứ còn hỏi chi nữa !
- Tôi không cố ý, xin các anh !
- “ Xin các anh” ! Đâu có dễ thế mày? Xã hội này
sòng phẳng lắm, không phải cái gì cũng xin là được đâu !
- Tôi đâu có tiền để trả cả bữa nhậu này cho các anh !
Mà nếu có trả thì các anh phải để số thức ăn lúc nãy tôi mang về ?! Như thế mới
gọi là sòng phẳng chứ ?!
- Thằng này láo ! Hán ! Dạy cho nó một bài học !
Trưởng băng ra lệnh.
Người mang tên Hán cởi chiếc áo ngoài vất xuống
đất, mình trần khệnh khạng tiến lên trước mặt anh giải phóng rồi ra đòn, chàng
chỉ chống đỡ. Chưa cách chi quật ngã đối thủ những tưởng tung cú song phi để hạ
nocout. Nhanh như tia chớp chàng trai nắm lấy 2 cổ chân tên Hán, một tiếng uỵch
nặng chịch, khóa chân tên Hán kêu lên như cha chết. Đồng bọn nhảy vào không
cách nào quật ngã đối phương. Biết đối thủ không phải tay dễ bắt nạt. Băng trưởng
ra lệnh:
- Dừng tay ! Bọn em có mắt như mù, xin anh tha
cho tội bất lễ ! Nếu đại ca không chê, xin mời đại ca đứng chủ sai khiến bọn
em, bọn em xin cung phụng đại ca đến nơi đến chốn.
- Theo các anh thì tôi phải làm gì ?
- Chẳng giấu gì đại ca, bọn em chuyên đâm thuê
chém mướn và đòi nợ .
- Tôi đã từng đâm thuê chém mướn cho cả một chế độ
mà bây giờ vẫn ra nông nỗi này, theo các anh nhằm nhò chi. Việc của các anh các anh cứ làm, việc tôi tôi làm miễn là giúp
tôi thu gom vỏ lon vỏ chai là được. Tôi ớn đâm chém lắm rồi. Còn đòi nợ ư ? Tôi
có một món nợ rất lớn mà chẳng dám đòi lại cho mình thì còn đòi được cho ai ?!
Từ nay tôi với các anh coi nhau là bạn !
- Dạ ! Tụi em xin nghe lời đại ca ! Khi cần mong
đại ca giúp bọn em !
Họ biết đâu trước đó Phạm
Kiệt là một trong hai chiến sỹ đặc công của quân khu được bổ sung về Trung đoàn
tăng cường cho đại đội trinh sát. Khi mới về mọi người gắn cho Kiệt họ Phạm để
trùng họ với một trong hai vị Trung tướng đầu tiên của QĐNDVN được thụ phong
năm 1948 – Trung tướng Phạm Kiệt - là người chủ động đề xuất với tướng Giáp
thay đổi từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc thắng chắc” trong chiến dịch
Điện Biên Phủ.
Trong lần gặp mặt được tổ chức tại Huế, ngồi bên
tôi Kiệt tâm sự:
- Trong cả cuộc đời bươn chải kiếm sống em thấy
thời kỳ đi nhặt ve chai là sung sướng nhất, chẳng vốn liếng gì, nhặt bao nhiêu
ăn bấy nhiêu, hết ngày là lăn ra ngủ, chẳng phải lo nghĩ gì cả. Nhìn nhếch nhác
thế thôi nhưng nhanh khá ra phết. Chỉ sau một năm em có tiền đứng ra thuê địa
điểm thu mua phế liệu và phất lên từ đó. Chưa bìu rín chuyện vợ con, lại không
nghiện ngập gì nên bọc tiền dư giả ngày càng to ra.
Tôi hỏi chen ngang:
- Thế sao cậu không lập nghiệp tại Sài Gòn mà lại
là Nha trang ?
- Cái nghiệp truyền thống của gia đình cứ đeo đẳng,
chả là quê em miền biển Thái Bình. Làm nghề gì mà có kinh nghiệm vẫn tốt hơn,
kinh nghiệm nghề nghiệp là cái không mua được, là khối tài sản vô hình mà không
phải ai cũng có ngay từ ngày đầu lập nghiệp. Hơn nữa ở Sài gòn thân cô thế cô,
tính mạng như trứng quảy đầu gậy, sống chết khó lường. Nghĩ vậy và quyết định kết
thúc 7 năm thu mua phế liệu, ra Nha Trang góp vốn làm nghề nuôi trồng chế biến
thủy sản từ đó cho đến nay. Gặp các anh lần này chẳng có món quà gì đáng giá,
chỉ tặng các anh ít sản phẩm đầu tay của nhà máy đóng hộp thủy sản Nha Trang, rất
mong các anh sau khi dùng góp ý để sản phẩm ngày càng đáp ứng nhu cầu người
tiêu dùng.
Tôi thầm nghĩ “cha này biết khai thác ngay cả đồng
đội cũ để làm nhân viên quảng cáo. Nó giàu là phải. Không biết cái án cậu ta phải
chịu năm ấy có oan sai không nhỉ ?”
Khi được giới thiệu phát biểu cảm nghĩ sau 35
năm xa nhau. Kiệt đứng lên, miệng méo xệch rồi òa khóc như trẻ nhỏ:
- Nếu ngày ấy, các anh thừa nhận ăn thịt lợn
tươi đỡ ngán hơn thịt hộp và số lượng được nhiều hơn thịt hộp, các anh đừng
nghe theo cấp trên biểu quyết đa số thì cũng khó kết tội em tham ô. Nhưng mà
thôi, chuyện qua lâu rồi em nhắc lại chỉ muốn mọi người hiểu cho: Cái án em
gánh chịu năm đó là oan sai. Bây giờ nghĩ lại thầm cảm ơn mọi người, nếu không
bị đẩy xuống đáy xã hội thì may ra em cũng chỉ là tay Trung tá vá xe hoặc phúc
nhà to là anh Đại tá nghỉ hưu chắc gì đã có ngày hôm nay…
Nghe Kiệt giãi bày nhiều
người mắt nhòa lệ, có thể đó là những giọt nước mắt ân hận muộn màng như thấy lại
hình ảnh ngày nào Kiệt miễn cưỡng đứng lên nhận tội.
Ngày ấy 35 năm trước, Anh Nguyễn Ngọc Tô quê Hà
tây làm quản lý bếp ăn Đại đội được Trung đoàn cho phục viên. Với bản tính cẩn
thận, chữ viết rõ ràng, Kiệt được chọn thay thế. Từ ngày Kiệt đảm nhiệm quản
lý, bữa ăn của anh em khá lên trông thấy. Nắm bắt được nhu cầu của người dân
thành phố tò mò muốn biết bữa ăn của bộ đội như thế nào, nhất là món thịt hộp sản
phẩm đặc trưng của Miền Bắc, bộ đôi ta lại quá ngán ngẩm với thịt lợn hộp lều bều
đã dùng lâu nay, nhất là món“thịt băm vụn hộp” được chế biến từ thịt cừu, ngửi
thấy mùi nhiều anh đã khó chịu. Kiệt cho mang thịt hộp ra chợ Đông Ba đổi thịt
lợn tươi với tỷ lệ 1/1.
Cuối tháng báo cáo công khai: Mỗi tháng tiêu thụ
hết 120 kg thịt hộp, vài anh to mồm phản ứng:
- Tháng này ai biết mặt mũi hộp thịt là gì, vài
miếng thịt tươi thái mỏng tang gió thổi bay, ai chứng giám đổi tỷ lệ 1/1 hay
1/2 ?
Và thế là có đơn kiện Kiệt lợi dụng chức vụ để
tham ô.
Người bảo vệ Kiệt thì cho rằng Kiệt đã biết nắm
bắt và vận dụng cơ chế thị trường linh hoạt và hiệu quả, thế là Kiệt lại bị qui
thêm tội: Mơ hồ mất cảnh giác, chạy theo cám dỗ vật chất tầm thường của chủ
nghĩa tư bản…Trong buổi họp kiểm điểm Kiệt có cán bộ của Trung đoàn về dự, với
tinh thần phải xử lý Kiệt thật nghiêm để răn đe những ai còn mơ hồ về “bản chất
xấu xa của CNTB”, thoái hóa biến chất, lợi dụng chức vụ để mưu cầu lợi riêng. Chẳng
ai dám đi chệch hướng chỉ đạo của cấp trên. Hai tội danh được ghi vào hồ sơ. Kiệt
có quyết định xuất ngũ, có người còn bảo :
- Cho xuất ngũ là may lắm rồi.
Cầm bộ hồ sơ lý lịch này về xin việc các cơ quan
nhà nước ư ?! Ai dám nhận một người có tư tưởng hữu khuynh lại có “tiền sự tham
ô”.
“Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực” Kiệt chẳng nhất mà
cũng chẳng nhì, mang nỗi nhục oan sai này về trình làng ! Dân làng coi ra gì nữa,
bố mẹ rồi cũng chết sầu mất.
Trong khi mọi người lỉnh kỉnh trên vai nào là
khung xe đạp, búp bê nhấp nháy, thau rổ nhựa … trở về Bắc. Với 2 bàn tay trắng nhưng Kiệt tin ở cái XH vừa bị sụp đổ này đó có thể bán được sức lao động, cái
mà ở ngoài Bắc chẳng ai coi ra gì. Kiệt tin vào những cơ bắp cuộn tròn săn chắc
nhờ những năm tháng luyện tập trong một binh chủng đặc biệt. Và thế là ngược
chiều với những chiếc xe đò chật cứng người mặc quần áo Tô châu. Trên nóc xe lỉnh
kỉnh hàng hóa sản phẩm của CNTB. Kiệt quyết định bắt xe vào Sài gòn…
Kiệt lau nước mắt, dừng lời.
Chính trị viên Sợi đứng dậy :
- Nghe chú Kiệt nhắc lại chuyện xưa ai cũng ngậm
ngùi xúc động. Chú Kiệt nói đúng, chính trong hoàn cảnh đó, chú ấy đã biết khẳng
định bản chất của người lính Cụ Hồ, bản lĩnh của người chiến sỹ trinh sát Trung
đoàn Phú Xuân để hôm nay anh em chúng ta có quyền nói rằng: Đại đội chúng ta tự
hào có Phạm Kiệt! ( Chả trách gì trước lúc nghỉ hưu anh ấy mang hàm Đại tá - Chủ
nhiệm chính trị tỉnh đội Hải dương)
Nặng nghĩa với mảnh đất mà bao đồng đội đã nằm lại
trong rừng xanh, nay lại vĩnh viễn nằm trong lòng hồ thủy điện sông Tả Trạch.
Khi công trình khánh thành, Kiệt ra Huế xin đầu tư nuôi cá tự nhiên cung cấp thực
phẩm sạch cho thị trường đồng thời xây dựng khu du lịch sinh thái với mức đầu
tư ban đầu 20 tỷ đồng và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 30 con em CCB.
Do chưa thỏa thuận được tỷ lệ ăn chia nên dự án vẫn nằm trên bàn của các cấp có
thẩm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế.
Kiệt hy vọng:
- Nếu dự án tiến triển tốt đẹp các bác sẽ là những
du khách đầu tiên lên thuyền vào Bãi Gạo, vào Ba Lô, vào Đồi Nón…thắp hương cho
bao anh em mình đã hết đường về.
Anh Thái (Trung tá - Trưởng phòng trinh sát QK1
đã nghỉ hưu, nguyên C trưởng) vỗ vào vai Kiệt, không biết anh ấy nói đùa hay thật
lòng:
- Nếu ngày ấy mấy ông cán bộ chính trị nhận thức
ra vấn đề, giới thiệu cậu làm cố vấn cho ban kinh tế trung ương Đảng, có thể đất
nước ta không kéo dài thêm 10 năm cơ chế quan liêu bao cấp, không ngu xuẩn
“đánh tư sản” ở Miền Nam, không phải trải qua một thời kinh tế cả nước kiệt quệ
đến vậy ! Nhân dân không phải ăn bo bo trừ bữa thứ mà CNTB không dám cho gia
súc ăn nguyên hạt.
Kiệt cười hiền lành như con gái:
- Anh lại tâng bốc em rồi !
Việc tách tỉnh Bình-Trị -Thiên khác với Nghệ Tĩnh. Từ năm
1990 trên các bàn bia tại TP Vinh những người vô công rỗi nghề đã bàn tán về
câu đồng dao:
“ Quốc Lựu,Quốc Thại , Quốc Ban
Cùng
với quốc lủi họp bàn việc chia…”
Chả là 3 ông có chung tên đệm ấy cùng
quê Hà Tĩnh, họ là những cán bộ của Đảng cũng đủ mưu mô mánh khóe nhưng ở chung
với Nghệ An chỉ là cấp phó, nếu tách tỉnh cả ba ông nắm ba suất đầu tỉnh là cái
chắc. Tách tỉnh chỉ có lợi cho đội ngũ cán bộ mà thôi, đối với người dân tách
hay nhập cũng chẳng ảnh hưởng gì lắm. Dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh vốn nặng
tình nặng nghĩa từ bao đời nay với tên chung “Xứ nghệ”.
|
Dương Xuân Châu |
Bình Trị Thiên thì hoàn toàn khác. Tách tỉnh, dân tỉnh
nào về tỉnh ấy. Thậm chí khi công việc chia tách hoàn thành, tại các công sở,
các trường học người ta cho làm tổng vệ sinh coi như một sự tẩy uế của những
năm nhập tỉnh.
Ai cũng nói Dương Xuân Châu là hệ lụy của thói cục bộ địa phương được lồng
trong chủ trương chia tách tỉnh . Trước lúc chia tách anh đang đảm nhiệm Trưởng
phòng kế hoạch vật tư thiết bị trường học, tách tỉnh người ta treo cho anh một
chức vụ thật béo bở : Giám đốc Công ty thiết bị trường học tỉnh Quảng Bình, nếu
là người tham quyền thì đây là cái ghế có thể kiếm chác được nhưng buộc phải xa
vợ và 3 đứa con đang trong độ tuổi ăn học. Hơn nữa cái nghiệp dạy chữ đã gắn bó
mấy đời. Với suy nghĩ:” Cha ông mình có ai quan chức gì mà vẫn kế nghiệp mấy đời
dạy học, mình bỏ đi thì tiếc lắm ”. Nghĩ vậy Châu cầm tờ quyết định bổ nhiệm
quay lại TP Huế gặp Giám đốc sở đề nghị:
- Báo cáo anh, tôi có nguyện vọng xin
được đứng lớp, trường nào cũng được, cấp gì cũng được, gần nhà thì tốt mà xa
cũng được . Tôi xin nhường chức Giám đốc
công ty thiết bị trường học cho người khác.
Giám đốc Sở tươi cười :
-
Nguyện vọng của anh rất chính đáng và đáng trân trọng, nhưng xin lỗi anh
nay đã tách tỉnh rồi, anh là người Quảng bình anh không nói được giọng Huế nên
anh không thể đứng lớp ở xứ này, anh muốn đứng lớp xin mời anh về Quảng Bình
tha hồ chỗ cho anh đứng.
Dương Xuân Châu không ngờ Giám đốc sở lại
cạn tàu ráo máng đến vậy, đầu anh như muốn nổ tung, rồi anh cũng kịp bình tĩnh
lại:
- Thế thì tôi hỏi anh, trước năm 75
bao nhiêu người không nói được giọng Huế mà sao tụi dân chính các anh vẫn bám
đít họ để leo lên ?
- Điều đó anh đi mà hỏi Đảng ! Đảng
phân công ai thì người ấy làm !
Lời qua tiếng lại và cuối cùng Đinh Xuân
Châu xé toạc tờ quyết định bổ nhiệm ném vào mặt Giám đốc sở. “Thôi thì không có
Nhà nước thì có nhà riêng, không có Đảng cũng chẳng sao, không có vợ không có
con mới khổ, xã hội nào thì cũng phải bỏ sức bỏ trí tuệ ra mà kiếm sống, mà
nuôi con”
Dương Xuân Châu bỏ tất cả, anh về với mái nhà riêng nơi có vợ hiền và 3 con
đang độ tuổi cần có một người bố biết cách ươm mầm tài năng và lòng nhân ái.
Anh mở lớp tại nhà, dạy kèm các cháu từ lớp 5 đến lớp 9, luyện thi cho các cháu
lớp 12.
“Họa vô đơn chí” lại đổ ập vào gia đình
anh, vợ anh đang là Cửa hàng trưởng chất đốt phía Nam, dính vụ án oan sai tham
ô 84 triệu đồng, họ lập biên bản tịch thu con dấu và buộc thôi việc, mãi đến 10
năm sau mới được minh oan và cho tiếp tục nộp bảo hiểm để được nghỉ hưu. Rồi cô
ấy trở thành cô giáo bất đắc dĩ: Nhận dạy kèm các cháu từ lớp 1 đến lớp 4.
Những ngày đầu thất cơ lỡ vận ai cũng ái ngại cho hoàn cảnh
của vợ chồng anh. Trên chính mảnh đất năm xưa, nơi mà anh đã bỏ lại 41% xương
máu lại nỡ đối xử với anh quá nghiệt ngã đến vậy. Mặc cảm với đời nên anh chẳng
mấy giao du với ai, nếu không có người đồng đội nguyên là chiến sỹ trinh sát Trung
đoàn, trưởng phòng quân y QK4 thì có thể những tờ giấy chứng thương đã thành mồi
nhóm lửa.
Anh chia sẻ:
- Được sống thế này là may lắm rồi, vài
ba mảnh bom đạn thấm tháp gì !
Có lẽ trời có mắt thật. Tháng 3/2017 vừa rồi trong ngày gặp
mặt CCB đại đội trinh sát, Chị Diên vợ Đinh Xuân Châu gửi ra một khoản tiền
không nhỏ nhằm giúp đỡ những CCB có khó khăn trong đời sống vật chất, mấy người
trong Ban liên lạc ái ngại tỏ ý không muốn nhận, Lê Văn Lý tự hào bảo với mọi người rằng:
- Hội vui lòng nhận lấy cho bà ấy vui,
bây giờ anh chị ấy không khổ nữa đâu, tuy 2 vợ chồng tháng chưa nổi 4 triệu bạc,
nhưng thằng cả đứng đầu một Tổng công ty riêng, thằng thứ 2 Tiến sỹ toán học ở
Pháp, thằng thứ 3 làm chuyên gia cho Nhật. Không đứa nào chịu ở lại Huế, nên
chúng nó lập cho bố mẹ cuốn sổ tiết kiệm phòng khi đau yếu. Khi chưa đau yếu
thì còn tiền để làm việc thiện, một việc làm mà chị ấy đã thực hiện từ gần 10
năm nay đối với dân nghèo huyện Phong Điền…
|
Vợ chồng Dương Xuân Châu (bên phải) và căn nhà nơi Vĩ Dạ |
Trong lần vào Huế vừa rồi tôi được biết thêm: Cháu thứ 2
là Tiến sỹ tại Pháp vừa được nước sở tại trọng dụng và trả lương cao nhưng cháu
đã từ chối để về Việt Nam thực hiện dự án đào tạo giáo viên dạy tiếng Hàn cho mấy
vạn cô gái các tỉnh Miền tây, đồng thời đào tạo giáo viên dạy tiếng Việt tại nước
Hàn. May mắn được dăm phút gặp cháu, cháu tâm sự :
- Nếu không làm thế, cả mấy vạn cô gái Việt làm dâu đất khách quê người sống khổ
lắm chú ạ, hơn nữa thế hệ Việt kiều thứ nhất, thứ 2 lớn lên chúng chẳng biết tiếng
Việt, chẳng biết gì về đất nước mà họ đang mang một phần dòng máu trong người.
Nghe cháu nói tôi thầm nghĩ: “Những năm
tháng còn lại của cuộc đời sẽ cố gắng học cháu được chút nào hay chút ấy. Đúng
là con nhà tông…”
Chuyện về gia đình Đinh Xuân Châu kể hết
còn dài lắm, ai còn nhớ đến Châu 3C
khoa toán ĐH Vinh nhập ngũ 1/72 xin mời qua Đập đá, thôn Vĩ dạ. Vẫn ngôi nhà tềnh
toàng và vật dụng tự năm nào. Có điều rất vui là sau mỗi tiết học nhà lại đầy ắp
tiếng cười của đám học trò nghèo m à vợ chồng anh dạy chỉ với mức phí 50 ngàn đồng/tháng.
Nói đến chuyện Dương Xuân Châu sẽ chẳng thể quên chuyện xẩy
ra trên đỉnh dốc H.15 hồi đầu năm 1973. Có lẽ hôm đối đầu với giám đốc sở, anh
bảo: “Tụi dân chính chúng mày vẫn bám đít họ để leo lên” là có ý nhắc lại chuyện
này:
Trên đường hành quân chuẩn bị cho chiến dịch đánh chiếm đồng bằng trước lúc ký Hiệp định Pa-ri. Cùng
hành quân có các anh chị em thuộc các cơ quan dân chính của địa phương, lên đến
đỉnh dốc H.15( dốc Thanh niên) mọi người nghỉ giải lao, chuyện trò thật vui vẻ
ai cũng muốn thể hiện mình bởi có “chất xúc tác”. Một người khoảng trên dưới 30
tuổi dáng vẻ thư sinh phán ra một chủ đề làm mọi người chưng hửng:
- Người đời có 2 cái ngu, ngu thứ nhất
là lấy vợ, ngu thứ 2 là sinh con.
Trong khi mọi người chưa biết nên tỏ thái độ như thế nào thì Dương Xuân Châu cười
ha hả:
- Thế thì nhà anh có 2 người ngu, người
thứ nhất là cha anh, vì ngu mà lấy mẹ anh, người ngu thứ 2 là mẹ anh, vì ngu mà đẻ ra anh.
Nghe vậy mọi người cười tán thưởng. Được
anh khơi nguồn, nhiều người phụ họa theo:
- Thế mày bảo cha mẹ bọn tao ngu nên đẻ ra chúng tao để vào đây chết oan à ?
- Bắn chết, chết mẹ nó đi !
- Đừng bắn mà phí đạn ! Lấy đá mà đập vỡ đầu nó ra !
Tính mạng của anh ta bị uy hiếp thật sự, vài ba người đứng dậy can ngăn và
khuyên anh nên mang bồng đi trước. Anh ta nghe theo và lủi thủi xuôi dốc như thể
con chó ăn vụng bị đánh đòn.
Khi anh cán bộ địa phương khuất bóng, mấy
người dân chính đi cùng xoa dịu:
- Mong các chú thông cảm, ông ấy lên rừng không phải vì yêu mến chi cái lý tưởng
CS, lên rừng để trốn chạy một mối tình, ông ấy nhiều khi nói năng hồ đồ vậy.
…Không biết vì lý do
gì mà khi lên rừng theo cách mạng chàng bỏ lại Huế cô người yêu đã có bầu. Thương
cô gái cả tin đã trao thân cho đứa em, bơ vơ giữa chốn thị thành, người anh cùng
họ đã lấy cô ta làm vợ. Biết đứa con sinh ra không phải con mình nhưng dẫu sao
nó cùng máu mủ nên coi như con đẻ. Lớn
lên cho ăn học tử tế. Những tưởng được du học tại thành trì của CNXH sẽ được
vinh thân, nào ngờ ngày đón nó về đã mang trong mình bạo bệnh chẳng bao lâu thì
qua đời. Chàng cũng sinh bạo bệnh. Những ngày cuối đời, người bón cho chàng từng
thìa cháo lại là cô người yêu năm nào. Dẫu sao thì trước lúc về thế giới vĩnh hằng
chàng cũng được nếm vị ngọt của đời, biết thế nào là sự dịu mát của bàn tay người
khác giới…
Chuyện xẩy ra trên dốc H15 những tưởng
đã đi vào quên lãng nào ngờ Dương Xuân Châu lại gặp chàng trong cái ngày
tách tỉnh nghiệt ngã ấy. Không ngờ thật một người lên rừng theo cách mạng không
phải vì yêu lý tưởng CS mà vẫn leo lên đến chức Phó chủ tịch TP rồi Giám đốc sở
Giáo dục - Đào tạo Thừa Thiên Huế. Hóa ra, dưới vẻ dịu êm của dòng Hương Giang,
vẻ mộng mơ của những tà áo tím, lẫn trong giọng Huế dịu ngọt đến mê hồn lại ẩn
chưa bao nhiêu chuyện để người đời suy ngẫm. Từ chuyện của cô gái Huế hành nghề
mãi dâm trên sông (Chuyện đã lên phim) đến chuyện vị Bí thư Tỉnh ủy cướp công của
đồng đội để treo đầy mình những tấm huân huy chương, xúi đàn em lập hồ sơ đề
nghị phong tặng ông danh hiệu AHLLVTND thời đánh Mỹ.
Ôi xứ Huế ! Nơi mà bao cán bộ, giảng viên,
sinh viên các trường ĐH cùng bao trai tráng nông thôn miền Bắc đã vô tư đổ máu
tưới cho mảnh đất này !?
Xin mời các bạn một lần nữa
thăm lại “địa ngục trần gian”.
Dù đi hết trong Nam ngoài Bắc nhưng tôi tin rằng : Những điều các bạn nhìn
thấy nơi đây còn hấp dẫn hơn cả nơi nào bạn đến, còn rùng rợn hơn cả công viên
18 tầng địa ngục. Xem xong các bạn sẽ thấy: Không dưng mà người đời lại đặt cho
Trung tâm huấn luyện tân binh - Sư đoàn 441-QK4 cái tên như vậy.
Khi đang gõ lên bàn phím những dòng này, bên tai vẫn văng vẳng
tiếng thầy Thung dạy môn văn phân tích 2 câu trong bài “Bình Ngô đại cáo”:
“Tướng sỹ một lòng
phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”
Theo qui luật phát triển thì càng về sau cái tình Tướng- Sỹ
đó càng gắn bó chặt chẽ , yêu thương nhau hơn bao giờ hết. Thế mà …
Cái rùng rợn nơi “Địa ngục trần gian” này không chỉ dành
riêng cho binh lính, mà ngay cả đội ngũ sỹ quan cũng phải gánh chịu bởi áp lực
rất lớn của nhiệm vụ huấn luyện lẫn đời sống vật chất tinh thần.
Tôi không thể quên hình ảnh Trung úy Nguyễn Văn Quế Đại đội
trưởng đại đội 2 cầm con dao tông, lấy phấn chia chiếc lốp xe đạp thành 4 phần
bằng nhau bằng 2 nhát chặt và xách 1/4 mang về, miệng cười méo xệch
:
- Phần của 3 chúng mày đấy !
Chả là Quế đã có vợ và một
con ở quê, đi đêm lắm
nhưng không gặp Ma mà gặp cô gái chưa chồng. Biết không thể thoát án kỷ luật
nên tôi “xi nhan” cho Quế làm đơn xin phục viên. Trong thời gian chờ giải quyết
chế độ, bốn anh Đại đội trưởng được phân một chiếc lốp xe, chẳng ai muốn nhừơng
cho Quế, mặc dầu vẫn biết xe của Quế “Cố vấn” nhiều chỗ : “Đi đêm nhiều cho nó
biết mặt”. Chẳng ai nhường và thế là Quế lấy phần của mình. Cái khó khăn, mặc cảm
về quan hệ nam nữ làm cho con người mất hết nhân tính. Hồ sơ ra quân của Quế do
Phó Tiểu đoàn trưởng phụ trách chính trị kiêm Bí thư Đảng ủy phê bút ngay cái khuyết điểm của Quế vào trong ấy. Tôi
bàn với Quế:”Phục viên về nhà cần gì hai chữ Đảng viên, bỏ đảng đi , mình lập lại
hồ sơ cho cậu”. Kế sách của tôi hóa ra lại thuận lợi cho Quế, là người dám phá
rào trong tình cảm, không đảng viên lại có điều kiện để phá rào trong làm ăn.
Chẳng bao lâu đ ủ nu
ôi 2 vợ và 4 con đầy đ ủ, ăn học tử tế. Riêng ông Bí thư,Quế hận đến
mức mà năm 2015, khi tôi báo tin cho Quế biết ông ấy đã đột tử, nhà ngay ngã ba
Lạc Thiện cách nhà ông ấy 5,6 km nhưng Quế chẳng đến thắp cho ông một nén hương.
Cái khổ thứ 2 của sỹ quan
nơi “địa ngục trần gian” là khi không huấn luyện tân binh. Phương châm “Làm lấy
nhà mà ở, sản xuất lương thực mà ăn, trồng lấy thuốc mà chữa bệnh” của tư lệnh
Lê quang Hòa được ông Nguyễn Quốc Thước phát huy cao độ. Không huấn luyện thì
phải làm kinh tế. Thế là rất nhiều kiểu làm KT được bung ra. Hình ảnh hàng trăm sỹ quan 3,4 giờ sáng
chạy ra bờ khe hồ Khe Lang đào đá
ong làm vật liệu xây dựng, anh nào không quen lao động nặng nhọc thì xin về nhà
đến hạn mang tiền vào nộp, có người tính tiền chỉ tiêu đá ong phải nộp gấp 2 lần
lương hàng tháng. Có nhiều nhóm xin đi khai thác gỗ về bán. Rừng Hương Khê,
Hương Sơn cạn kiệt lại sang Môn Sơn , Lục Dạ thượng nguồn sông Giăng tàn phá.
Nhiều anh nhanh nhạy hơn thì về Vinh lấy hàng chở lên Hương Khê bán cho dân tìm
trầm. Tôi là người tham gia cả hai việc,
khi dân làm trầm thất bại bỏ về, hàng hóa chẳng biết bán cho ai, lại thành lập
tổ lên sông Giăng tung hoành. Về đến cầu Mưng Hưng nguyên cũng vừa bán hết gỗ nứa.
Hơn hai tháng trời chui rúc rừng sâu rồi mình trần chống chèo đưa bè về
xuôi,đen như quỉ đói, râu không cạo, tóc không cắt. Ăn uống kham khổ sụt mất dăm ba ký, má hóp, người gầy nhom. Vừa
về đến nhà mấy cô cậu học sinh hỏi vợ tôi: - Bố chồng hả cô?
Nhìn lại mình trông thật thảm hại !
Bây giờ mỗi lần đi qua khu
biệt phủ của Tướng Thước ngay trên quê của cụ, bên đường tránh Vinh lại thấy
mình khờ dại. Nếu năm ấy, năm 1985 khi cụ dẫn cán bộ của 6 sư đoàn về tổ chức
“hội nghị đầu bờ” tại Tiểu đoàn tôi, chỉ cần nhờ cụ cho vài ba
chiêu làm kinh tế thì đâu đến nỗi phải buôn gian bán lậu, đâu phải chui rúc nơi
rừng thiêng nước độc.
|
TQS - Người đứng ngoài cùng bên trái |
Nỗi khổ thứ 3 của sỹ quan và đặc biệt cán bộ cấp đại đội,
trung đội, tiểu đội là phải chịu áp lực quản lý tân binh. Hầu như không có đêm
nào không có lính bỏ ngũ. Nhiều đêm nằm nghe tiếng chân chạy, tiếng la hét của
anh em đuổi bắt lính bỏ ngũ chẳng khác chi cảnh chạy càn trong kháng chiến. Chẳng
đêm nào có được giấc ngủ yên lành. Bữa ăn hàng ngày cũng chẳng khác tân binh, đại
đội nào chọn được cậu liên lạc siêng năng thì may ra có thêm bát canh tập tàng.
Thức ăn chủ đạo để nuốt trôi cơm vẫn là nước gạo rang cộng với muối mà chúng
tôi vẫn quen gọi bằng cái tên quen thuộc là “nước chấm”, bởi thế tuy cơm và hạt
bo bo chưa đủ no nhưng vẫn dư thừa. Đời sống tinh thần chẳng khá gí hơn. Toàn Sư
đoàn chỉ có E Bộ và Tiểu đoàn tôi có điện máy nổ thắp sáng đến 21 giờ đêm. Trong
15 tiểu đoàn chỉ đơn vị tôi có một chiếc tivi đen trắng 14 inch phục vụ cho ba
bốn trăm người xem.
Mỗi đại đội được phát 2 tờ báo Nhân D ân & Quân Đội. Trong bộn bề khó khăn cũng nẩy ra nhiều ý tưởng. Sáng kiến được nhiều người làm theo là
tổ chức nuôi lợn riêng. Lợn tiểu đoàn , lợn đaị đôi, lợn trung đội. Nhìn cảnh mỗi
dịp tết đến trên ghi-đông xe đạp của một số sỹ quan lủng lẳng dăm ba cân thịt lợn
là nỗi thèm đến rỏ dãi của nhân dân mấy xã Đức Dũng, Đức An và Nga Lộc… Và thế
là có anh cán bộ đại đội coi chú lợn của Ban chỉ huy hơn cậu liên lạc của mình
(Chú Thảo ơi ! kể lại này không nhằm nói xấu chú đâu mà muốn nói một thời như
thế).
Phạm văn Thảo - Đại đội
trưởng đại đội 2 tiểu đoàn 7, mọi người vẫn gọi là “Thảo Đen”, người có con mắt tinh đời nên đã chọn TQS làm
liên lạc. Chọn được cậu liên lạc vừa ý còn khó hơn chọn đi đào tạo sỹ quan
chính trị .Người khó tính đến mấy cũng khó tìm ra yếu điểm của TQS. Một hôm TQS
ốm không thể nuốt nổi cơm và xin Đại trưởng Thảo báo cháo để ăn. Thảo đồng ý và
dặn thêm:
- Cậu báo thêm vài ba suất để làm thức ăn cho lợn!
TQS hý hửng chấp hành và thầm nghĩ: “Trưa nay được bữa cháo ra trò”.
Nào ngờ, vừa ăn được 2 bát, Thảo quát:
- Ốm đau chi mà ăn lắm thế, ăn chừng ấy được rồi, còn lại để
cho lợn !
Quyết không để cho TQS ăn thêm, Thảo nhổ vào nồi cháo một bãi
nước bọt. TQS buông bát lặng lẽ vào ngồi
bên khẩu AK, nhưng rồi cũng kịp nghĩ lại: “Bắn nó chết mà mình tự sát không chết
thì đời không biết ra sao”. Và rồi như có tổ tiên mách bảo, câu nói của người
anh con bác nhập ngũ vào tiểu đoàn tôi trước đó một năm vẳng bên tai : “Trong ấy
có cụ Phan Sỹ Niêm - Tham mưu trưởng sư đoàn trọng người có học lắm”. Chiều hôm
đó TQS liều mạng mang tờ giấy báo trúng tuyển ĐH Luật lên gặp cụ.Sau khi nghe
cách trình bày mạch lạc cùng khuôn mặt sáng sủa, dáng vẻ khôi ngô, cụ Niêm phán:
- Bây giờ cho cậu ra đi học thì chưa được đâu, mình sẽ điều cậu
lên trung đội vệ binh, công tác ở đó một thời gian, mình sẽ cho cậu đi học…
- Chú Thảo ơi ! Bây giờ chú có biết cậu liên lạc của chú làm
gì không !?
Chưa hết hạn nghĩa vụ TQS được cụ Niêm cho ra quân để đi học
thật ! Tốt nghiệp thủ khoa và dễ dàng vào cơ quan nhà nước, làm đến cấp phòng của
VKSNDTC nhưng cậu ấy lại một lần nữa vượt rào . Không cam chịu cảnh làm thuê ba
cọc ba đồng cho nhà nước. Hơn nữa không thể chịu được nhiều cảnh ngang trái diễn
ra mà một người có lương tâm từng chứng kiến nên xin ra ngoài mở công ty riêng.
Nay là giám đốc công ty luật Quốc Thái hoạt động rộng khắp trên cả nước. Đồng
thời cùng với em trai sở hữu nhà máy bột đá siêu mịn Thọ Hợp - Quỳ hợp Nghệ An
với sản phẩm có chất lượng đứng đầu Việt nam được xuât khẩu
chủ yếu cho thị trường Trung Quốc và Ấn độ. Chỉ riêng khoản tiền điện phải
trả đã lên tới 2 tỷ đồng mỗi tháng, xu ất 500 tấn sản phẩm m ỗi ng ày, giải quyết việc làm cho 120 lao động thường xuyên chủ
yếu con em dân tộc ít người với mức lương bình quân 8 triệu đồng một tháng cũng
đủ thấy quy mô doanh nghiệp ở mức nào
Nơi “địa ngục trần gian” vẫn có những con người
nhân ái, đức độ như cụ Niêm, nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ sức lan tỏa nhằm cứu vãn bao sinh linh vô tội phải bỏ xác
nơi chiến địa CPC. Ngồi nhẩm tính lại 10 năm tồn tại của Sư đoàn 441 mà ớn lạnh
khắp người. Mỗi năm 3 đợt nh ận
qu ân với mỗi đợt 6.000 (sáu ngàn)
người th ì Ít nhất phải trên mười vạn thanh niên
chủ yếu của 5 tỉnh: Bình –Trị - Thiên, Nghệ an, Hà tĩnh đã được giao cho chiến
trận. Trong số đó có biết bao người như TQS ?! Đã cơ quan nào thống kê con số
những người trở về chưa nhỉ ? Đó mới đích thực là “Địa ngục trần gian”.
Có người hỏi tôi. Sống trong môi trường ấy làm
sao để Tiểu đoàn trưởng tay không nhúng chàm ?
Ngày mới được về đơn vị với chức vụ Tiểu đoàn
phó trực tiếp quản lý và huấn luyện quân. Nhìn cảnh anh Nguyễn Văn Đại ( quê Cẩm
Quang - Cẩm Xuyên) - Tiểu đoàn phó Hậu cần dong một tân binh đi hết đại đội này
đến đại đội khác, trước ngực là miếng cơm cháy to bằng chiếc bánh đa, sau lưng
là tấm biển đề dòng chữ: “Em xin lỗi anh chị lợn, nếu ai cũng như em thì anh chị
chết đói” .
Chả là vì quá đói, cậu tân binh nọ chạy vào khu
vực nhà bếp cướp cháy dành cho lợn để ăn, không may bị anh em nuôi quân bắt được
đưa lên giao cho anh Đại và anh ấy đã xử lý bằng cách bêu rếu như vậy. Thấy thế
tôi lại gần nói nhỏ vào tai Đại: - Thôi cái trò này đi anh !
Anh ấy cười khềnh khệch: Thôi ! Thôi thì anh nhường
cơm anh cho lợn !
Là cấp phó với nhau anh ấy muốn lĩnh vực mình phụ
trách bất khả can thiệp.
Đang mùa đông lạnh buốt, cả
Trung đội tân binh mình trần ngụp lặn dưới hồ để mò tìm khẩu súng của ca gác
nào đó làm mất. Thực ra súng đâu có mất mà do thiếu ngủ nên lính gác ngủ gật,
cán bộ đi kiểm tra phát hiện lấy súng giấu đi, báo động kiểm tra vũ khí và thế
là bắt cả Trung đội thức dậy xuống hồ mò súng trong đêm. Biết vậy nhưng chẳng
dám can ngăn, nếu can thiệp tay cán bộ nọ vất súng đi thật thì cậu lính gác
càng thêm nặng tội.
Tình trạng lợi dụng sức lao động của tân binh diễn
ra hầu hết các cấp, các đợn vị. Thậm chí có Tiểu đoàn trưởng quê tận ngoài Bắc
vẫn cho các cô gái về thu hoạch mùa cho vợ mình, hơn thế nữa còn điều động lính về đào ao nuôi
cá. Đặc biệt đợt huấn luyện tân binh của TP Huế. Một số cán bộ đại đội, trung đội
cho lính về trộm để “nhờ” mua khi thì vài đôi Pê-đan xe đạp, khi chiếc lốp, chiếc
xăm. Có anh cao tay hơn khi biết bố mẹ ai đó làm việc trong các cơ quan có thể
kiếm chác được thì nhờ mua dăm ba tạ xi măng, vài chục cân thép, vài ngàn gạch,
dăm mét vải, cân đường, hộp sữa…Trong vài lần được giao đi kiểm tra các đội
khai thác gỗ, phát hiện nhiều khuất tất: Khi gỗ nứa cập bến Linh Cảm, cán bộ phụ
trách cho tân binh về đơn vị, số gỗ tốt họ đem bán chia nhau, anh nào không lấy
tiền thì cho xuôi dòng đưa về nhà riêng. Cách đây vài năm khi đến chơi nhà một
Trung đội trưởng cũ quê Nghi Thái - Nghi Lộc, cậu ấy khoe rằng: “Gỗ căn nhà này
em kiếm được từ hồi anh mới về đơn vị”.
Biết tất cả nhưng không thể
làm gì bởi mình chỉ là cấp phó, hơn nữa đó là tình trạng chung như cha tôi thường
nói lúc sinh thời: “Bè lim sào sậy”
Được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng năm 31 tuổi. “Cờ
đến tay ai người ấy phất” và tôi đã phất theo cách của riêng mình. Hình ảnh những
tân binh dưới quyền tôi là hình ảnh của tôi 12 năm về trước. Có điều ngày ấy
cũng đói , cũng lao động vất vả, huấn luyện mệt nhọc, cũng được “Rèn cho ra bã”
nhưng không phải chịu nhiều cực hình như tân binh nơi “đia ngục trần gian” này.
Tôi thầm nghĩ : Nếu ngày ấy bị “Rèn” như ở đây thì mấy anh cán bộ khung đi giao
quân sẽ không có cơ may trở về đất Bắc.
Một điều không thể không
nói đến đó là do lao động quá nặng nhọc, rèn luyện quá căng thẳng, ăn uống kham
khổ nên nhiều tân binh giả đau, giả ốm để
được nghỉ ngơi. Chính sự gian dối đó đã dẫn tới nhiều cái chết oan nghiệt. Nhiều
tân binh đau thật nhưng cán bộ cho là giả vờ nên vẫn bắt đi tập, đi lấy củi…
khi đã không thể chịu được đưa đi cấp cứu thì đã muộn. Tôi vẫn nhớ như vừa xẩy
ra hôm qua, đó là đợt dịch viêm não Nhật Bản. Chỉ khi Phòng Quân y Quân khu 4
và Bộ Y tế vào cuộc sau 2 tháng nội bất xuất ngoại bất nhập mới dập được dịch.
Tuy nhiên 5 tân binh đã tử vong, trong đó có 3 tân binh quê ở QK9 và một em quê
Song Lộc- Can Lộc là học sinh giỏi quốc gia.
Tự coi mình như người anh
cả trong gia đình tôi quyết định thay việc quản lý tân binh từ biện pháp hành
chính sang quản lý bằng tình thương và trách nhiệm. Để tránh tình trạng bỏ ngũ
hàng loạt tôi quyết định giấu Sư đoàn cấp phép cho tân binh về thăm nhà mỗi đợt ba bốn chục, mỗi đợt 5- 6 ngày . Tân
binh cũng như tôi 12 năm về trước, chỉ được nghỉ lại Nghi Vạn một ngày nhưng vẫn
băng đồng, vượt đồi núi để về gặp người yêu. Với cách làm đó chưa đầy 2 tháng
toàn bộ lính đã được về thăm nhà. Một điều không thể ngờ được là tất cả những
tân binh được nghỉ phép không ai cắt cơm để lấy gạo về, mỗi đợt huấn luyện dư
kho trên 2 tấn gạo. Tiền thu được từ việc bán gạo được dùng vào nhiều việc phục
vụ đời sống vật chất , tinh thần chiến sỹ. Riêng cán bộ sỹ quan một tháng cấp
thêm 15 kg gạo mang về cho vợ con. Đồng thời buộc mọi người đến nhà ăn ăn cùng
chiến sỹ, chấm dứt tình trạng bếp riêng, kể cả bếp của BCH Tiểu đoàn. Tất cả ăn
chung một tiêu chuẩn. Phần tiêu chuẩn của sỹ quan dư ra, được chi trả gấp đôi để
ngày nghỉ mang về nhà cho vợ con.
Điện được thắp sáng đến 10h, mua thêm một chiếc
tivi, mua máy khâu may vá áo quần cho chiến sỹ.
Trong một lần vào núi Trà Sơn đi săn và kiểm tra
trại bò, nhìn đồng cỏ xanh non rộng dài trên những quả đồi thuộc xã Thượng Lộc
cách doanh trại 8km thế là tôi quyết định nâng cấp đầu tư trại bò ngay trong đó
để cải thiện cho đơn vị. Khi sư đoàn phát hiện ra thì đàn bò đã lên đến 4 chục
con. Lợn nuôi ở các đại đội được đưa về
Tiểu đoàn nuôi tập trung cùng với số lợn thực phẩm bắt về. Nhìn đàn lợn 5- 6 chục
con béo múp, nhiều anh trợ lý Sư đoàn xuống kiểm tra đơn vị cứ ngỡ như mơ.
Từ thực tế những lần đi kiểm
tra đôn đốc các tổ khai thác gỗ, tôi nhận ra một điều: Nhân dân mấy xã dọc sông
Lam như Nam Quang, Nam Hồng, Hưng Lĩnh ,Hưng Long… đúc kết quả không sai “Thứ
nhất buôn bè - Thứ nhì buôn chè bến Rộ” Buôn
chè bến Rộ chưa trải nghiệm nên chưa biết thế nào, nhưng buôn bè thì quả là
nhanh giàu thật. Thế là thay việc dùng tân binh đi chặt phá rừng, làm theo kiểu
“nước sông công lính”, được sự thống nhất cao độ của BCH Tiểu đoàn và Đảng ủy
chúng tôi mượn tiền lương hàng tháng của sỹ quan để lên đầu nguồn mua gỗ của
dân bản địa rồi thuê họ cánh bè về xuôi để bán. Trong một tháng đồng vốn quay
vòng 2 lượt, Đúng là một vốn 4 lời. Sỹ quan ai cũng phấn khởi vì tuy lương có
chậm một tháng nhưng tiền được trả gấp 1,5 lần, những người trực tiếp làm nhiệm
vụ được hưởng thêm 10% lợi nhuận. Rất nhiều anh thích đi buôn bè hơn ở nhà huấn
luyện. Khi có được đồng tiền trong tay, thay vì đưa tân binh đi lấy củi, tôi
cho người vào ga La Khê, Tân Ấp mua củi của dân thuê tàu hỏa chở về ga Đức Lạc,
rồi mua gỗ tốt tổ chức đóng đồ gia dụng cho sỹ quan. Nói tóm lại là đã làm những
việc mà đảng viên không được làm để cải thiện đời sống cho cán bộ chiến sỹ
trong Tiểu đoàn, thậm chí nhiều trưởng phó , trợ lý các ban phòng trên sư đoàn
bộ cũng được “hưởng xái”, người thì biếu con lợn con, người thì vài chục kg gạo,
nhi
ều khi có khách họ lại chạy xuống
tiểu đoàn 8 xin nhượng một vài cân thịt lợn.
Riêng việc chăm lo sức khỏe cho tân binh chúng tôi đã
làm một việc mà sau đó một số Tiểu đoàn cũng h ư ởng ứng theo. Tất cả những ai kêu đau đều được đưa lên Quân y Tiểu
đoàn kiểm tra và chăm sóc trực tiếp. Những người đau yếu thực sự được chăm sóc
tận tình, những người giả vờ đau cũng ngại ngùng trước sự quan t âm đó nên cũng tự nguyện xin về đơn vị
công tác.
Những việc làm của BCH Tiểu
đoàn chẳng giấu được mãi và rồi một ngày cuối năm 1986. Sư đoàn tổ chức thanh
tra tiểu đoàn tôi, yêu cầu Tiểu đoàn trưởng phải trả lời mấy câu hỏi:
- Tiền ở đâu ra để có đàn bò 40 con nuôi giấu
trong xã Thượng Lộc? Thức ăn ở đâu để duy trì đàn lợn 5-6 chục con
- Tiền ở đâu ra để chạy máy nổ thường xuyên ? Tiền
đâu ra để mua máy khâu may vá áo quần cho tân binh.
- Tiền đâu ra để mua gỗ đóng đồ gia dụng cho sỹ
quan?
Tôi đã trả lời không hề giấu diếm điều gì.
Sau 4 ngày quần đảo hết mọi
sổ sách nhưng vẫn không tìm ra chứng cứ nào có sự tư túi của BCH Tiểu đoàn và đặc
biệt là tôi, cuối cùng đoàn thanh tra thống nhất kết luận: “ Tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn 8 có nhiều việc làm sai trái vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính,
nhưng không có biểu hiện lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi cho bản thân. Những
việc làm của BCH tiểu đoàn 8 cần xử lý theo hướng: Thu về công quỹ 8.000 đồng
tiền mặt (quỹ đen). Đem vào sổ sách quản lý 40 con bò tại trại Thượng lộc.( thực
chất là họ đã tịch thu một khối tài sản lớn của tiểu đoàn). Sau đợt thanh tra
đó tôi được sư trưởng mời lên nhắc nhở, cuối cùng ông ấy kết luận: “Tôi khuyến
cáo những việc làm của đồng chí”
Ra về nghĩ bụng: Trong các hình thức kỷ luật của
quân đội chẳng có hình thức nào “khuyến cáo” cả.
Tuy nhiên sau đó 3 tháng tôi có quyết định điều
về tổ viết sử của Sư đoàn, trong buổi giao nhiệm vụ, chủ nhiệm chính trị dõng dạc:
- Khi nào cậu hoàn thành cuốn lịch sử Sư đoàn Đồng
Lộc sẽ cho cậu chuyển ngành.
Họ đã cách chức tôi một cách thật tế nhị.
Tôi đã cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để nhanh
chóng tránh xa môi trường mà tôi đã ngán như ngán “cơm nếp choẹt” bấy lâu nay.
Trong hơn 8 năm sống và công
tác tại Trung tâm huấn luyện 441- Sư đoàn Đồng Lộc, ấn tượng sâu sắc nhất để lại trong tôi là Tư lệnh quân khu Nguyễn Quốc
Thước . Trong lần dẫn đầu đoàn cán bộ của 5 sư đoàn về “hội nghị đầu bờ” tại Tiểu
đoàn tôi, yêu cầu báo cáo những việc tôi đã làm để có kết quả chỉ tiêu giao
quân khóa nào cũng đạt hầu như 100%. Sau nh ững thủ tục thông thường, thay mặt cho tập thể Đảng ủy, BCH Tiểu
đoàn, tôi báo cáo:
- Thưa các Thủ trưởng, tiểu đoàn tôi không có lính bỏ ngũ vì tôi cho
anh em về trước lúc bỏ ngũ.
Vừa nói được chừng ấy cả hội trường đã không còn
yên lặng. Anh Trương Đình Thanh, lúc đó
đang là Sư trưởng 342 giật áo và nói vừa đủ tôi nghe:
- Mi có bị điên không rứa ?(Anh ấy là anh kết
nghĩa)
Tôi gạt tay anh và tiếp tục:
- Xin các Thủ trưởng bình tĩnh, các thủ trưởng đã
mất công đến đây hãy chịu khó nghe tôi nói hết. Trước tiên các thủ trưởng cần
hiểu đúng hai chữ đào ngũ và bỏ ngũ, lính của QK4 chúng ta không đào ngũ mà các
em chỉ bỏ ngũ về một thời gian, nhằm thỏa mãn ý thích cá nhân. Nếu để các em bỏ
ngũ họ sẽ không ý thức được ngày trở về đơn vị. Tôi cấp phép cho các em về
trong một thời gian có hạn định, số đi trước đến hết mới cho số sau về là để
các em tự quản lý lấy nhau. Hơn nữa giấy phép có chính quyền địa phương xác nhận
là đưa các em vào sự quản lý của chính quyền địa phương, buộc các em hết phép
phải vào đơn vị...Tôi nói rất nhiều nhưng mọi người vẫn chú ý lắng nghe. Cuối
cùng miệng nói mà nước mắt cứ chảy tràn:
- Các thủ trưởng biết rồi đấy, huấn luyện các em
xong là đưa sang mặt trận 479, tôi đã hai lần đưa các em sang đó. Năm trước đưa các em
sang, năm sau gặp lại có em đã đảm nhiệm quyền đại đội trưởng rồi, nói như vậy
để các thủ trưởng biết mức độ ác liệt hy sinh lớn đến nhường nào. Tôi cho các
em về như một nghĩa cử “Nghĩa tử là nghĩa tận” ,các em được gặp người thân lần
cuối. Nếu các thủ trưởng bảo đảm quân của tôi ra đi và trở về 100% thì tôi xin
nhận kỷ luật trước các thủ trưởng.
Anh Thanh lại một lần nữa kéo áo để tôi ngồi xuống.
Tôi vẫn cố nán lại để nói lời cuối cùng:
- Tôi tin rằng các thủ trưởng chẳng nỡ kỷ luật
tôi đâu, bởi suy cho cùng nhiệm vụ huấn luyện và chỉ tiêu giao quân luôn đặt
lên hàng đầu, xét về góc độ đó thì tôi đã hoàn thành xuất sắc.
Hội nghị kết thúc trong bầu không khí nặng nề,
chẳng ai phát biểu gì thêm. Tư lệnh quân khu kết luận:
- Chúng ta cứ nghe đồng chí Tiểu đoàn trưởng nói
vậy đã, sẽ có kết luận sau.
L úc chia tay ra về anh Thanh hỏi anh Trần Lưu Chử - Sư trưởng 341:
- Anh còn nhớ hắn không ?
Anh Chử chưa kịp nhớ ra anh Thanh đ
ã nói ngay:
- Hắn là công vụ của tôi, vào đợt lính sinh
viên. Là người tháp tùng anh rút lên theo đường Hói Mít cuối năm bảy hai đấy.
Anh Chử ôm tôi thật lâu, vỗ nhẹ vào vai:
- Mi giỏi ! Mi giỏi !
Rồi tôi cũng kịp nhắc lại
chuyện ông đã xử sự với tù binh năm nào.
Không biết các Sư đoàn khác về dự hội nghị làm
gì sau đó, còn riêng Sư đoàn tôi, các khóa huấn luyện sau đều thực hiện theo
cách mà chúng tôi đã làm.
Thiết nghĩ: Một quân đội dù số tướng lĩnh nhiều
đến mức mà gỡ hết sao trên cầu vai họ, tung lên bầu trời thành dải ngân hà đêm
mùa hạ, mà không có được sự đồng lòng của binh sỹ thì sức mạnh chiến đấu cũng sẽ
bằng không !!!
Cán bộ chiến sỹ thời nay đối xử với nhau thế nào
?
Không biết các vị tướng trẻ hiện nay có ai trải
qua giai đoạn
huấn luyện tân binh không nhỉ ?
Bao ký ức lại ùa về.
(Còn tiếp)